Thursday, January 5, 2023

51. SỰ THẬT VÀ SỰ DỐI TRÁ VỀ DỊCH_COVID

Bài viết sẽ được cập nhật thường xuyên, các nội dung cập nhật sẽ được ghi ngày tháng và đặt lên phía trên  để người đọc tiện theo dõi.

--------------------------------

Cập nhật 28/09/2025:

Sự thật về các chính sách chống dịch covid (3)

Báo cáo khoa học quan trọng nhất về các chính sách covid được xuất bản, phân tích toàn diện về những sai trái của các chính sách chống dịch này.

Tháng 5/2025, báo cáo khoa học “What Lessons can Be Learned From the Management of the COVID-19 Pandemic?” được xuất bản trên tạp chí khoa học uy tín về sức khỏe công chúng International Journal of Public Health. [1[1b[link dịch máy]

Đây là báo cáo khoa học quan trọng nhất (tính đến thời điểm này) về các chính sách covid, phân tích toàn diện về những sai trái của các chính sách này. Ai muốn hiểu rõ sự thật về các chính sách covid thì nên đọc báo cáo này.

-  Báo cáo dài hơn 40 trang A4, được viết bởi 37 nhà khoa học quốc tế đến từ hơn 30 trường viện, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: dịch tễ học, y tế công cộng, sinh học phân tử, vi sinh lâm sàng, dược, toán thống kê & dữ liệu, kinh tế học, luật, xã hội học, chính sách sức khỏe… có góc nhìn đa chiều và lập luận chặt chẽ với 400 tài liệu dẫn chứng. Báo cáo được bình duyệt bởi những giáo sư hàng đầu thế giới là Nino Kuenzli và Marcel Tanner, đều có h-index trên 100 điểm.

Báo cáo chỉ ra 4 nhóm vấn đề lớn:

Vấn đề 1: Sự phụ thuộc quá mức vào các mô hình Covid-19 mà không có kiểm chứng thực tế đầy đủ.

-  Các mô hình giả định này quá đơn giản, phi thực tế, cộng thêm dữ liệu đầu vào sai lầm, dẫn đến dự báo hoàn toàn sai lạc so với thực tế và thổi phồng nỗi sợ hãi về dịch bệnh. Chính các mô hình sai lạc này tạo ra sự hoang mang, lo sợ, và là nguyên nhân đã dẫn đến hàng loạt các chính sách chống dịch sai trái, phản khoa học về sau.

Vấn đề 2: Thiếu đánh giá phản biện về các can thiệp phi dược phẩm (NPI). 

-  Các chính sách can thiệp phi dược phẩm kém hiệu quả nhưng gây ảnh hưởng tiêu cực nặng nề lên toàn xã hội: phong tỏa, giãn cách, khẩu trang, cách ly tập trung…

Vấn đề 3: Đánh giá không nhất quán về các can thiệp dược phẩm (PI) khác nhau

-  Các thuốc phổ thông đã được dùng trong nhiều chục năm nhưng rẻ tiền bị gạt bỏ (hydroxychloroquine và ivermectin), nhưng lại thúc đẩy các loại vaccine công nghệ mới (DNA & RNA) chưa từng được kiểm chứng hay sử dụng trong tiêm chủng công

-  Hiện nay đã thấy rõ: hiệu quả của các vaccine covid đã được đánh giá quá cao, trong khi tác dụng phụ thì lại bị phớt lờ một cách nguy hiểm.

Vấn đề 4: Bác bỏ các quan điểm khoa học hợp lệ, xem chúng là "thông tin sai lệch"

-  Sự kiểm soát thông tin trên diện rất rộng (từ truyền thông dòng chính, báo chí truyền hình cho đến mạng xã hội, công cụ tìm kiếm và thậm chí là tạp chí khoa học…) và bôi nhọ các quan điểm phản biện là cực kỳ nghiêm trọng, dẫn đến cái nhìn hoàn toàn sai lạc về dịch bệnh và các chính sách. 

Tóm tắt chi tiết nội dung báo cáo:

Vấn đề 1: Phụ thuộc quá mức vào các mô hình dịch tễ mà không có kiểm chứng thực tế đầy đủ

Từ đầu dịch, các mô hình toán học dịch tễ dường như đã quyết định hầu hết các phản ứng chống dịch của chính phủ:  (nhấn mạnh)

Dường như các mô hình gây báo động một cách cao độ đã gây ra mối lo ngại sâu sắc, dự đoán hàng triệu ca tử vong nếu không áp dụng các biện pháp can thiệp quy mô lớn. Điều này khiến họ từ bỏ các kế hoạch ứng phó đại dịch vốn có, và gấp rút thay thế bằng một bộ can thiệp phi dược phẩm (NPI) mới chưa từng có và phần lớn chưa được thử nghiệm.

-  Các quyết định tăng hay giảm độ nghiêm ngặt của NPI thường bị ảnh hưởng bởi các kịch bản mô hình.

-   Cơ sở lý luận cho việc tiêm chủng đại trà trên toàn dân số (trái ngược với tiêm chủng tự nguyện cho các cá nhân, hoặc cho các nhóm dân số có nguy cơ cụ thể) dựa trên các kịch bản mô hình về những hậu quả sẽ xảy ra nếu giảm bớt các NPI trước khi đạt được ngưỡng miễn dịch cộng đồng thông qua tiêm chủng.

-  Việc đánh giá hiệu quả của các NPI lẫn việc tiêm chủng chủ yếu dựa trên việc so sánh những gì đã xảy ra so với điều sẽ xảy ra trong các kịch bản mô hình. 

   Vấn đề là khi các mô hình này sai lạc, thì các phản ứng và đánh giá hiệu quả cũng đều là sai!

Sử dụng mô hình lỗi thời từ những năm 1920s:

-  Các mô hình dịch tễ covid sử dụng mô hình SIR/SEIR, là một mô hình toán học lạc hậu, từ những năm 1920s, trước khi có điện toán và máy vi tính. Trong khi đó, có hàng loạt những lý do mà mô hình này không phù hợp cũng như không được sử dụng hợp lý:

- Phớt lờ tính thời vụ của virus corona:

+ Tương tự các virus đường hô hấp khác, virus corona có tính thời vụ và chủ yếu bùng phát mạnh vào mùa đông (và xuân). Đa số mô hình lại bỏ qua tính thời vụ này, dẫn đến phán đoán sai lạc.

- Phỏng đoán sai lệch về “một làn sóng”

+ Mô hình SEIR đưa ra giả định sai lạc rằng nếu không can thiệp, sẽ chỉ có 1 làn sóng dịch duy nhất. Từ đó, họ cho rằng bất cứ khi nào sóng dịch tạm rút xuống thì đều là nhờ các can thiệp y tế của chính phủ. Đây là một giả định sai lạc, tạo ra hiệu quả ẢO cho các chính sách chống dịch.

- Không xét đến tính không đồng nhất về nguy cơ mắc bệnh và tiếp xúc

+ Mô hình SIR được đơn giản hóa, trong đó mọi người đều giống nhau bất kể tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, nơi ở, tình trạng miễn dịch… Ngoài ra, việc sử dụng một giá trị trung bình R0 duy nhất về tỷ lệ lây truyền có thể là không thực tế.

+ Tóm lại, các mô hình SEIR có rất nhiều sai lầm trong giả định, và dẫn đến phỏng đoán không đúng với thực tế.

Sự không nhất quán trong số liệu thống kê lại được dùng để hiệu chỉnh mô hình

-  Các phương pháp đo lường số ca mắc, số ca tử vong có sự khác biệt giữa các địa phương, và còn thay đổi liên tục, dẫn đến số liệu rất thiếu chính xác, tác động mạnh đến việc hiệu chỉnh mô hình.

-  Ước tính ban đầu về tỉ lệ tử vong nhiễm bệnh (IFR) là quá cao vì lúc này xét nghiệm ít và chỉ ghi nhận ca bệnh đối với các trường hợp nặng.

-  Khi xét nghiệm hàng loạt được triển khai, và lại dùng ngưỡng chu kỳ (Ct) rất cao trong xét nghiệm RT-PCR dẫn đến dương tính giả, thì số ca bệnh không còn ý nghĩa nghiêm trọng nữa, mà chỉ là xét nghiệm nhiều thì số ca nhiều.

-  Việc ghi nhận số ca tử vong có nhiều sai lầm nghiêm trọng. Ví dụ tại Anh, số ca tử vong được ghi nhận với những người tử vong trong vòng 28 ngày sau khi xét nghiệm covid dương tính hoặc covid được ghi vào giấy chứng tử. Do đó “tử vong covid” thực chất là tổng số của “tử vong do covid” lẫn “tử vong với covid”, tức là những người chỉ tình cờ dương tính với covid. Điều tương tự cũng xảy ra với số ca nhập viện: ghi là nhập viện với covid, nhưng thật ra covid lại không phải nguyên nhân!

Thiếu kiểm tra đánh giá độ tin cậy của các mô hình dự báo

-  Các cơ quan đưa ra chính sách quá phụ thuộc vào kịch bản mô hình, nhưng lại không cố gắng đánh giá độ chính xác/ thiếu chính xác của nó. Một số kịch bản rất hợp lý, không nghiêm trọng hóa dịch bệnh thì không được chú ý; nhưng một số kịch bản đặc biệt nghiêm trọng, kịch tính (chưa chắc hợp lý) thì lại được chú ý đặc biệt.

-  Thêm vào đó, các kịch bản được đưa ra với giả định không có chính sách can thiệp. Do đó, khi triển khai chính sách, lại không thể kiểm chứng ngược lại các mô hình là đúng hay không đúng với thực tế. Và bởi vì họ áp dụng những kịch bản đặc biệt nghiêm trọng, nên khi thực tế nhẹ nhàng hơn kịch bản, thì họ lại bảo các chính sách (cách ly, vaccine…) là có hiệu quả thực tế, trong khi đó chỉ là hiệu quả so với một mô hình giả định chưa được kiểm chứng!

-  Trong một số trường hợp hiếm hoi mà chính sách không được thực hiện, thực tế đã không xảy ra theo kịch bản. Điều này chứng minh là các kịch bản mô hình này sai lạc rất nhiều!

-  Ví dụ như Thụy Điển đã không thực hiện hầu hết biện pháp phi dược phẩm (NPI), cho thấy dự báo mô hình thường sai lầm lớn về số ca tử vong thực tế. Mô hình của ĐH Hoàng Gia Luân Đôn ước tính 34.895 ca tử vong trong làn sóng đầu tiên ở Thụy Điển ngay cả khi có giãn cách xã hội toàn dân. Trong khi đó, đến cuối tháng 7/2020, số ca tử vong thực tế chỉ có 5.741 ca.

-  Nhiều nghiên cứu cho thấy các quốc gia thực hiện các chính sách chống dịch ít nghiêm ngặt nhất lại thườn    g KHÔNG có nhiều ca tử vong hơn các quốc gia nghiêm ngặt nhất. Điều này cũng chứng minh các mô hình là sai! Cuối cùng, vào tháng 12/2021, Anh đã quyết định bác bỏ các khuyến nghị dựa trên mô hình kêu gọi phong tỏa lần thứ 4. Khi đó, tử vong thực tế chỉ bằng 1 phần 20 so với những gì mà mô hình dự đoán!

(Nhận định: Thụy Điển, châu Phi và Việt Nam… là những nơi thấy rõ các mô hình dự báo dịch hoàn toàn sai. Trong đó, 14 tháng đầu dịch, VN chỉ có 35 người chết; nhưng từ khi áp dụng vaccine, phong tỏa và cách ly tập trung, thì số người chết tăng gấp 1200 lần trong cùng kỳ 14 tháng tiếp theo. Đã chứng minh: [2]. Sự thật này cho thấy người ta chết vì các chính sách phòng dịch (lây nhiễm chéo trong các khu tập trung, chữa trị sai cách, vaccine…), chứ không phải vì dịch.)

 

Vấn đề 2: Thiếu đánh giá phản biện về hiệu quả của các can thiệp phi dược phẩm (NPIs)

-  Can thiệp phi dược phẩm (NPI) là các biện pháp như giãn cách, phong tỏa, hạn chế đi lại, khẩu trang, giãn cách xã hội… về lý thuyết nhằm làm chậm sự lây lan virus và dịch bệnh. Các chính phủ đã sao chép các biện pháp này, tạo ra một hiệu ứng gần như toàn cầu.

-  Hiệu quả của các biện pháp này lại là ảo, vì được so sánh với mô hình kịch bản chứ không phải là thực tế (như đã chỉ ra ở vấn đề 1). Nhiều nghiên cứu cho thấy các biện pháp này không những không hiệu quả, mà còn gây ra nhiều hậu quả có hại ngoài ý muốn, không chỉ đối với sức khỏe cộng đồng mà còn đối với xã hội và kinh tế.

Bỏ qua chiến lược thay thế và khuyến nghị truyền thống, mà không có sự cân nhắc nghiêm túc

-  Trước 2020, đã có các kế hoạch ứng phó đại dịch được đề ra, và chúng khuyến cáo không nên thực hiện hầu hết các NPI! Ngay chính một báo cáo tổng hợp của chính WHO mùa thu 2019 đã kết luận là rất thiếu bằng chứng về hiệu quả của hầu hết các NPI!

-  Người ta cũng dự đoán rằng các NPI cũng có thể gây ra những tác hại đáng kể. (Những dự đoán này sau đó đã được xác nhận bởi đánh giá bằng chứng khoa học của cơ quan y tế Anh (UK HSA). Tuy nhiên, các kế hoạch ứng phó dịch này đã bị hủy bỏ đột ngột mà không có nhiều thảo luận (và được thay thế bằng những kế hoạch phi khoa học đã được dùng trong dịch covid).

-  Các NPI được triển khai trong dịch covid được quảng cáo là “tuân theo khoa học” nhưng thực tế là “khoa học” tại thời điểm đó đã bị thay thế vội vã dựa trên các mô hình nghiêm trọng (sai lạc) đã nói trước đó!

-  Thực tế Thụy Điển không áp dụng các NPI nghiêm ngặt, về lâu dài đại dịch tại nước này không hề nghiêm trọng hơn so với các nước xung quanh.

-  Cuối 2020, ba nhà dịch tễ học nổi tiếng đã viết Tuyên bố Great Barrington, đưa ra chiến lược bảo về tập trung hơn, ưu tiên bảo vệ người cao tuổi và những người dễ bị tổn thương nhất với covid, thay vì chiến lược phân tán trên toán dân số mà họ lo rằng sẽ có tác động tiêu cực. Đến hiện tại, tuyên bố này đã có 941.261 người ký tên, bao gồm 16.176 nhà khoa học y tế và sức khỏe công và 47.839 bác sĩ. Tuy nhiên, không những không được thảo luận công khai, Tuyên bố này đã ngay lập tức bị bác bỏ và cáo buộc là “có khả năng nguy hiểm”.  (xem thêm tại đây)

Không xem xét lại hiệu quả của các NPI trong khi dịch bệnh tiến triển

-  Các NPI đã được áp dụng nhanh chóng, và các chính phủ đã tưởng rằng chúng đúng đắn, nghĩ rằng chúng có hiệu quả vì hậu quả nghiêm trọng đã không xảy ra như dự báo của các mô hình.

-  Tuy nhiên, điều này thực ra là do các mô hình dự báo sai. Một số nghiên cứu so sánh kỹ lưỡng các NPI ở các quốc gia, và không thấy các NPI có ảnh hưởng rõ ràng hoặc nhất quán. Nhiều NPI cảm thấy là đúng, nhưng phân tích khoa học lại không cho thấy như vậy.

-  Khẩu trang là một trường hợp điển hình: các đánh giá tổng hợp trước đại dịch đã không xác định được khẩu trang có tác động đáng kể có ý nghĩa thống kê trong sự giảm lây lan virus đối với bệnh cúm. Ngay trong dịch covid, nhiều nghiên cứu bao gồm một phân tích tổng hợp Cochrane và nghiên cứu so sánh 35 quốc gia châu Âu đã không xác định được mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa khẩu trang và covid.

   (Nhận định: Trước dịch, chính phủ Anh đã xem xét gần 8000 nghiên cứu về khẩu trang, và không tìm được bằng chứng cho thấy chúng có tác dụng phòng ngừa bệnh cúm. Các bằng chứng về hiệu quả của cách ly, phong tỏa… đều gần như không có, nhưng lại gây hậu quả nghiêm trọng toàn xã hội! [3])

Phớt lờ các hậu quả ngoài dự kiến của NPIs đối với sức khỏe cộng đồng

-  Các NPI có cả hậu quả có lợi lẫn bất lợi, do đó cần phải cân nhắc để khi triển khai nó sẽ đem lại lợi ích lớn hơn tác hại. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu, ví dụ ÓhAiseadha et al, cho thấy điều ngược lại.

-  Các hậu quả có hại của NPI như: gây căng thẳng, ảnh hưởng sức khỏe tâm thần, rối loạn dinh dưỡng, sụt giảm hoạt động y tế khác, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội và môi trường, gián đoạn giáo dục, giảm tiếp cận y tế cho nhóm không COVID, suy giảm khả năng chăm sóc cho người cao tuổi

-  Báo cáo khoa học này tin rằng: trong các đại dịch tương lai, nên tránh sử dụng hầu hết các NPI thời covid!

 

Vấn đề 3: Đánh giá không nhất quán về các can thiệp dược phẩm (PI) khác nhau

Các biện pháp can thiệp dược phẩm (PI) bao gồm các loại thuốc và vaccine covid. Đã có sự bất cân xứng, thiếu khoa học và không nhất quán đáng kể trong cách xem xét các loại PI các nhau trong đại dịch!

-  Việc nghiên cứu về tiềm năng chữa trị covid bằng các thuốc có sẵn tái mục đích đã bị ngăn cản một cách chủ động, thay vì khuyến khích! Hai loại thuốc gốc (generic) là hydroxychloroquine (HCQ) và ivermectin (IVM) đều đã được sử dụng rộng rãi trong hàng nhiều chục năm, đã bị ngăn chặn một cách đặc biệt nặng nề. Remdesivir, một loại thuốc mới đắt tiền mà Gilead giữ bằng sáng chế thì lại được cho sử dụng (dù hồ sơ an toàn không tốt).

   (Nhận định: HCQ có dược tính tương tự ký ninh, thứ đã được hàng tỷ người sử dụng chống sốt rét trong nhiều trăm năm, [4] và trong vài năm ngắn ngủi đã có hơn 500 nghiên cứu về hiệu quả của HCQ với covid. [5] Còn ivermectin là loại thuốc được trao giải Nobel y học vì lợi ích to lớn của nó với loài người, và hiện cũng đã có khoảng 200 nghiên cứu về IVM với covid. [5])

-  Ngược lại, việc thúc đẩy sử dụng công nghệ vaccine mới (mRNA hoặc DNA) lại được tích cực khuyến khích, và bất kỳ nghiên cứu nào hoài nghi về tính an toàn hoặc hiệu lực của các loại vaccine mới này đều không được khuyến khích. Nhiều bác sĩ, nhà khoa học đã quảng bá vaccine mRNA/ DNA, mãi về sau mới nhận ra rằng các công nghệ vaccine mới này không giống với bất cứ vaccine truyền thông nào, và cũng chưa bao giờ được sử dụng trong bất kỳ chương trình tiêm chủng công nào trước đây! Thực chất các vaccine di truyền này được phát triển trên nền tảng công nghệ sinh học đã bị trì hoãn phê duyệt hơn một thập kỷ do các sự kiện bất lợi đáng kể.

-  Các vaccine này đã được thúc đẩy trên toàn dân số, kỳ thị những người chưa tiêm. Những người lên tiếng rằng bị tổn thương do tác dụng phụ sau tiêm thì lại bị dán nhãn mỉa mai là “chống vaccine”.

-  Nhiều chính phủ lại từ chối chấp nhận vaccine covid do WHO phê duyệt sử dụng công nghệ thông thường hơn (vaccine bất hoạt). Ví dụ quân đội Mỹ đã tham gia vào các chiến dịch tuyên truyền hạ uy tín của Sinovac/ Coronavac của Trung Quốc. Ở Mỹ và nhiều quốc gia, chỉ chấp nhận vaccine mRNA/ DNA mà không chấp nhận vaccine công nghệ truyền thống!

Báo cáo khoa học này xác định đã có đủ thông tin để đưa ra các tuyên bố sau:

1. Sự chủ động ngăn cản việc nghiên cứu nhằm xác định và đánh giá các phác đồ có triển vọng liên quan đến thuốc tái sử dụng giá rẻ đã gây khó khăn và bất an - đặc biệt là trong những trường hợp mà các loại thuốc đang được xem xét có hồ sơ an toàn đã được hiểu rõ.

2. Việc cố tình lập lờ công nghệ vắc-xin mRNA và DNA mới với vắc-xin truyền thống đã gây ra hiểu lầm và dẫn đến việc thiếu hiểu rõ thông tin khi đồng ý tiêm chủng, đối với các loại vắc-xin COVID-19 mới này.

3. Hiệu quả của vắc-xin mRNA/DNA COVID-19 đã bị đánh giá không chính xác và bị đánh giá quá cao.

+ Nhiều nghiên cứu khoa học dùng phương pháp rất sai lầm là kết luận hiệu quả của vaccine bằng cách so sánh với con số giả định mà các mô hình kịch bản đã đưa ra!

4. Độ an toàn của vắc-xin mRNA/DNA COVID-19 cũng bị đánh giá không chính xác và được đánh giá quá cao một cách nguy hiểm.

+ Thực chất là các thử nghiệm giai đoạn 3 đánh giá về tính an toàn của vaccine covid chỉ kéo dài 2-3 tháng. Và ngay khi nó được cấp phép khẩn cấp, nhóm đối chứng đã được xóa mù và được tiêm vaccine. Điều này dẫn đến không còn nhóm đối chứng để đánh giá tính an toàn của vaccine về lâu dài!

+ Nhiều nghiên cứu cho rằng covid gây nguy cơ viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim cao hơn vaccine, nhưng những ước tính đó là sai lầm và đã được khoa học chỉ ra. Các nghiên cứu chính xác hơn đã xác nhận rằng rủi ro viêm cơ tim/ viêm màng ngoài tiêm do vaccine là cao hơn nhiều so với nhiễm bệnh!

+ Có sự gia tăng đáng kể tỉ lệ tử vong vượt mức liên quan đến việc triển khai vaccine. Một số nghiên cứu so sánh tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân phát hiện rằng rủi ro này tăng nhẹ ở nhóm vaccine so với nhóm không tiêm vaccine! Tỉ lệ tử vong vượt mức ở phương Tây vẫn ở mức cao đã 3 năm liên tiếp, bất chấp các biện pháp ngăn chặn và vaccine. Có những lo ngại nghiêm trọng về việc này. (rằng vaccine đã gây ra điều này)

5. Đến cuối năm 2021, rõ ràng là vắc-xin COVID-19 không phù hợp để đạt được miễn dịch cộng đồng và vì lý do này, tiếp tục chương trình tiêm chủng toàn dân (thay vì cung cấp vắc-xin tự nguyện cho từng cá nhân) không còn hữu ích về mặt sức khỏe cộng đồng.

(Nhận định: Vaccine đã được các nước phương Tây sử dụng như một “counter-measure”, mà trước dịch covid không ai gọi như vậy cả. Countermeasure là một thuật ngữ trong các tài liệu về chiến tranh và phòng thủ sinh học do các nhóm an ninh sử dụng, [6] thay vì một chính sách y tế công. Đó là lý do của sự cưỡng ép và sử dụng toàn dân, thay vì tự nguyện và theo đối tượng.)

 

Vấn đề 4: (Vô tình) Bác bỏ các quan điểm khoa học hợp lệ, xem chúng là "thông tin sai lệch

Trong suốt đại dịch, người ta bảo rằng “tuân theo khoa học”, nhưng khoa học của họ lại thường xuyên thay đổi. Những người không đồng ý thì bị gạt ra ngoài lề, và bị xem là “khuyến khích thông tin sai lệch nguy hiểm” hoặc “phản khoa học”, kể cả khi đó là các nhà khoa học/ chuyên gia có trình độ cao.

Vai trò của công chúng

-  Công chúng dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý, đạo đức và bị sợ hãi bởi dịch bệnh (được gia tăng bởi các nỗ lực của chính phủ và các phương tiện truyền thông), dẫn đến xu hướng "chuẩn hóa đạo đức" các biện pháp ứng phó và khó tiếp nhận các quan điểm khoa học trái chiều.

-  Sự sợ hãi này tạo ra xu hướng chỉ tìm kiếm các thông tin hợp quan điểm và tránh quan điểm bất đồng. Từ đó, họ tham gia vào việc gán nhãn tiêu cực cho các ý kiến khác biệt  là “thuyết âm mưu”, “phản khoa học”… khiến xã hội phân cực sâu sắc và làm giảm khả năng đối thoại đa chiều.

Vai trò của truyền thông

-  Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền con người nêu rõ “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm mà không bị can thiệp và quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin và ý tưởng thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào và bất kể biên giới”.

-  Tuy nhiên, trong đại dịch, nhiều cơ quan báo chí ưu tiên phương thức "đưa tin đáng tin cậy"—tức chọn lọc thông tin theo định hướng có lợi cho chính sách, thay vì "đưa tin cân bằng" phản ánh đa dạng ý kiến khoa học. Điều này dẫn đến việc các biên tập viên, phóng viên đã tự phong vai trò làm "người gác cổng" định đoạt việc đưa thông tin nào cho công chúng, đồng thời lạm dụng ngôn từ tạo ra sự “chắc chắn” về các kết luận khoa học vốn đang biến động.  (các phóng viên, nhà báo không có chuyên môn lại tự cho mình thẩm quyền bác bỏ, bôi nhọ những nhà khoa học lớn như Luc Montagnier, người đoạt giải Nobel y khoa 2008.)

Vai trò của nền tảng mạng xã hội và công cụ tìm kiếm

-  Các nền tảng truyền thông mạng xã hội và công cụ tìm kiếm trên Internet vốn dĩ mang lại cho công chúng cơ hội tự tìm hiểu và chia sẻ thông tin. Tuy nhiên, các nền tảng này bị áp lực từ chính phủ và truyền thông buộc phải kiểm soát “thông tin sai lệch”, dẫn tới kiểm duyệt và chỉ ủng hộ thông tin được cho là đúng.

-  Hiện nay, người ta ngày càng nhận ra rằng các “thông tin sai lệch” bị ngăn chặn hóa ra lại là đúng, và ngược lại! Một CEO lớn của Meta (Facebook, Instagram & Whatsapp) sau đại dịch đã thừa nhận rằng nhiều nội dung bị yêu cầu kiểm duyệt hóa ra lại là đúng hoặc đáng thảo luận. Từng có thời điểm Facebook phạt người dùng vì chia sẻ một bài báo được xuất bản trên tạp chí y khoa NEJM, tạp chí y khoa ở hàng số 1 số 2 thế giới.  (xem tại đây [7])

Vai trò của các tổ chức kiểm tra sự thật

-  Các tổ chức này thường được tài trợ bởi các tập đoàn lớn, đôi khi đánh dấu hay kết luận thông tin là “sai sự thật”, “gây hiểu lầm” dựa trên những căn cứ không chắc chắn, hoặc xuyên tạc, nhưng lại đóng vai trò căn cứ để các nền tảng mạng xã hội/ xuất bản “chặn” thông tin. Quá trình kháng nghị là rất khó khăn, và thay vì cải thiện chất lượng thông tin, thì việc “kiểm tra sự thật” thực chất chỉ là sự kiểm duyệt hoặc làm mất uy tín những ý kiến khoa học khác với họ.

-  Phương pháp “tiêm chủng lý luận” cũng được áp dụng để giảm thiểu khả năng tiếp cận quan điểm đa chiều của công chúng. Họ cố tình bóp méo các lập luận thuyết phục thành các phiên bản kém thuyết phục (thậm chí là ngu ngốc), sau đó phản bác lại các biên bản ngụy biện này. Tương tự như vậy tiêm vaccine bằng một loại virus đã bị làm yếu, khi công chúng sau đó tiếp xúc với các lập luận (logic) ban đầu, họ tự động bác bỏ chúng mà không cân nhắc kỹ lưỡng.   

   (Nhận định: “tiêm chủng lý luận” là 1 mánh khóe thao túng thông tin cực kỳ tinh vi, và đã thực sự được nghiên cứu và vận dụng, khiến cho một bộ phận lớn người dân bị định hướng tư tưởng mà không hề hay biết. Xem tại đây [8])

Vai trò của Chính phủ và Hội đồng tư vấn khoa học

-  Lãnh đạo và nhà hoạch định chính sách thường viện dẫn “làm theo khoa học” nhưng thực tế là có những ý kiến khoa học trái chiều về hầu hết mọi vấn đề, nên thực ra họ chỉ chỉ chọn lọc một phần khoa học phù hợp với ý chí chính trị. Một số chính phủ thường chỉ đơn giản là làm theo (bắt chước) các nước láng giềng (chứ không nghiên cứu và tự quyết định dựa trên khoa học).

-  Những quyết sách lớn lại chịu ảnh hưởng đặc biệt bởi các mô hình dự báo. Mà cuối cùng chính phủ Anh thấy rằng các dự báo mô hình của họ đã sai lệch thực tế tới 20 lần!

-  Nhiều chính sách vốn bị y tế công trước dịch xem là không thể chấp nhận được. Một số chính sách còn chịu ảnh hưởng bởi lợi ích nhóm, gây ra tình trạng thiên lệch, thiếu minh bạch, đôi khi dẫn tới những quyết định độc đoán, làm suy yếu nền dân chủ và niềm tin xã hội. Và thực tế là mặc dù luôn tuyên bố rằng các quyết sách là dựa trên bằng chứng khoa học, nhưng thông tin hậu trường lại cho thấy các quyết định thường được đưa ra mà không có cơ sở hợp lý cụ thể!

   (Nhận định: các chính phủ, cơ quan y tế đã dùng những mánh khóe hù dọa dân chúng để thực hiện những chính sách độc đoán của mình. Xem hồ sơ phong tỏa bị lộ để thấy điều này: [9])

Vai trò của các công ty dược phẩm

-  Một nghiên cứu khoa học cho thấy rằng ngành dược phẩm có khả năng sử dụng 5 chiến lược vĩ mô và 16 chiến lược trung mô, để ảnh hưởng đến khoa học.

-  Ngành dược phẩm đã tung một số tiền rất lớn quảng cáo trên các nền tảng truyền thông và mạng xã hội, có khả năng làm sai lệch tính trung lập của các nền tảng đó. Ví dụ như riêng ở Mỹ, ngành dược phẩm chi gần 4 tỷ đô la quảng cáo trên tivi riêng năm 2021. Một nghiên cứu lại cho thấy những người chỉ trích HCQ nhiều nhất đã nhận được nhiều tài trợ nhất từ Gilead, nhà phát triển remdesivir.

-  Ngành công nghiệp dược phẩm có ảnh hưởng cực kỳ lớn đến truyền thông, mạng xã hội, chính sách của các chính phủ cũng như cộng đồng khoa học.

Vai trò của cộng đồng khoa học

-  Có rất nhiều thông tin, phân tích và ý kiến khoa học được đưa ra trong suốt đại dịch. Tuy nhiên, quá trình bình duyệt khoa học trở nên thiên lệch khi nhiều tạp chí bắt đầu ưu tiên các nghiên cứu ủng hộ một số quan điểm nhất định. Các nghiên cứu ủng hộ được xuất bản rất nhanh, có khi chỉ trong 48 giờ sau khi nộp. Còn những nghiên cứu trái chiều với quan điểm chủ đạo dễ bị trì hoãn (có khi đến 2 năm), từ chối, thậm chí rút bài vô căn cứ, làm sai lệch nhận thức về chất lượng và ý nghĩa của chúng.

-  Việc thu hồi/ rút bài báo bắt đầu trở thành công cụ của một hình thức kiểm duyệt mới. Nhiều nghiên cứu nổi bật về covid đã bị một tạp chí rút lại hoặc thu hồi mà không đưa ra được lý do khoa học đầy đủ hoặc không cho tác giả cơ hội phản hồi: Walach et al, Kostoff et al (2022), Savaris et al (2021), Rose and McCullough (2021)…

(Nhận định: một sự đảo trắng thay đen chưa từng có đã xảy ra trên diện rộng trong suốt thời gian dịch. Vô số lời dối trá từ các cơ quan y tế đã được chứng minh tại đây: [10])

 

Kết luận & Khuyến nghị

Về việc sử dụng mô hình toán học và máy tính cho tư vấn chính sách

-  Kết luận 1: Mô hình toán học và máy tính là công cụ mạnh trong đánh giá các tình huống dịch tễ, nhưng kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào các giả định, giả thiết và dữ liệu đầu vào. Đối với COVID-19, mô hình đã không chính xác so với thực tế.

-  Kiến nghị 1: Mô hình chỉ nên được dùng như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải để thay thế phân tích thực nghiệm. Sự phù hợp và thích đáng của chúng cần được xem xét lại liên tục và kiểm chứng bằng dữ liệu thực tế.

Về việc áp dụng các biện pháp can thiệp phi dược phẩm (NPIs)

-  Kết luận 2: Đa phần các NPI được triển khai dựa trên cơ sở mô hình hoặc lý thuyết, tuy nhiên nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hiệu quả hạn chế thậm chí không có hiệu quả, đồng thời mang lại nhiều tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng.

-  Kiến nghị 2: Nếu lại cần xem xét áp dụng NPIs trong tương lai, phải tiến hành đánh giá tác động sức khỏe toàn diện. Ngoài ra, bắt buộc phải liên tục đánh giá hiệu quả của chúng một cách khách quan và dựa vào thực nghiệm.

Về việc áp dụng các biện pháp can thiệp phi dược phẩm (NPIs) trong đại dịch

-  Kết luận 3: Việc hạn chế và ngăn cản nghiên cứu các thuốc tái mục đích, chi phí thấp và an toàn như hydroxychloroquine và ivermectin là điều đáng lo ngại. Độ an toàn của hai loại thuốc này đã được khẳng định qua nhiều thập kỷ sử dụng. Nếu chúng có hiệu quả dù nhỏ trong việc giảm nhẹ covid, thì việc ngăn chặn chúng là vấn đề rất đáng lo ngại.

-  Kiến nghị 3: Việc nghiên cứu các phác đồ điều trị bằng thuốc tái mục đích, có hồ sơ an toàn rõ ràng nên được khuyến khích thay vì ngăn cản. Cần đảm bảo điều này đối với các đại dịch trong tương lai.

-  Kết luận 4: Giờ đây, rõ ràng là người ta đã quá lạc quan khi đưa ra các tuyên bố về hiệu lực và sự an toàn của vaccine mRNA/ DNA khi bắt đầu triển khai tiêm chủng. Những vaccine này không ngăn ngừa hoàn toàn sự nhiễm bệnh hoặc lây truyền, hiệu quả giảm bệnh nặng thì vẫn còn tranh cãi. Tỉ lệ các phản ứng phụ nghiêm trọng là cao hơn được thừa nhận ban đầu. Khi nhìn lại, nhiều nhà nghiên cứu đã cảnh báo về từng điểm nêu trên, nhưng họ đã bị chỉ trích, trừng phạt hoặc phớt lờ thay vì được tiếp thu.

-  Kiến nghị 4: Các nhà nghiên cứu nên được khuyến khích phản biện về mức độ an toàn và hiệu lực của vaccine mà không sợ bị gán mác “chống vắc-xin” hoặc “phản khoa học”, nếu kết quả của họ cho thấy điều đó.

-  Kết luận 5: Lời bào chữa ban đầu cho việc các chính phủ thúc ép tiêm chủng đại trà toàn dân số dựa trên giả định có thể đạt miễn dịch cộng đồng sẽ làm giảm đáng kể sự lây truyền. Tuy nhiên, ngay cả khi lời bào chữa đó đã không còn phù hợp, các chương trình này vẫn được tiếp tục ở nhiều quốc gia đến đầu 2023. Việc tiêm nhiều loại vaccine, đặc biệt là mRNA và DNA, có những rủi ro không nhỏ về phản ứng có hại nghiêm trọng. Tiếp tục thúc ép tiêm chủng tạo ra rủi ro không cần thiết cho sức khỏe cộng đồng cũng như các vấn đề đạo đức và luân lý.

-  Kiến nghị 5: Các chương trình tiêm vaccine trong tương lai phải dựa trên phân nhóm đối tượng và đánh giá kỹ về hiệu quả và an toàn, và phải dựa trên sự đồng thuận tự nguyện thực sự.

-  Kết luận 6: Quyền tự quyết của bệnh nhân và bác sĩ trong việc chăm sóc sức khỏe của cá nhân đã bị xâm phạm nghiêm trọng bởi các chính sách y tế quốc gia có vẻ như chịu tác động mạnh từ ngành dược phẩm. Việc thể hiện mong muốn dùng thuốc tái mục đích thường bị từ chối. Bệnh nhân hoặc bác sĩ bày tỏ lo ngại về vaccine đều gặp nhiều nghịch cảnh hoặc sự thù địch đáng kể. Những bệnh nhân báo cáo tai biến sau tiêm đã phải trải qua sự “phủ nhận” và dường như không được các cơ quan chức năng xem xét khả năng do vaccine gây ra.

-  Kiến nghị 6: Hippocrates khuyến cáo rằng việc phòng chống bệnh tật cần hợp tác giữa bác sĩ và bệnh nhân. Bên cạnh các chính sách ở tầm quốc gia, thì cũng phải đảm bảo rằng bệnh nhân và bác sĩ được phép làm việc với nhau để đưa ra hướng chăm sóc sức khỏe cá nhân hóa riêng cho từng bệnh nhân.

Những nỗ lực giảm thiểu thông tin sai lệch vô tình che giấu các quan điểm khoa học đúng đắn

-  Kết luận 7: Khi nỗ lực chống lại “thông tin sai lệch”, các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, chính phủ và tạp chí khoa học đã hạn chế nghiêm trọng quyền tiếp cận thông tin khoa học có giá trị và cản trở nghiêm trọng khả năng của mọi người trong việc thảo luận về các vấn đề phức tạp, đa chiều liên quan đến covid.

-  Kiến nghị 7: Cách tốt nhất để chống lại những ý tưởng xấu là dùng những ý tưởng tốt hơn. Việc kiểm duyệt các quan điểm khoa học khác nhau không dẫn đến những quan điểm khoa học tốt hơn, mà chỉ dẫn đến những kết luận khoa học yếu kém hơn. Tự do khoa học cần được gìn giữ. Nếu không, cái giá phải trả cho nhân loại có thể rất lớn.

 

Nhận định của người viết:

-  Đại dịch covid đã chứng kiến một sự dối trá chưa từng thấy ở quy mô toàn cầu. Đó chính là sự thật, và sự thật này đang dần được sáng tỏ. Điều duy nhất cần phải hỏi là: hậu quả của tất cả những sự dối trá này đạt đến mức nào, và sẽ còn kéo dài đến đâu?  (người viết tin rằng hậu quả vẫn chưa kết thúc)

-  “What Lessons can Be Learned From the Management of the COVID-19 Pandemic?” là báo cáo khoa học quan trọng nhất (tính đến lúc này) về các chính sách covid, phân tích toàn diện về những sai trái của các chính sách này, dù buộc phải dùng ngôn ngữ thận trọng. [1[1b[link dịch máy]

-  Nội dung phía trên chỉ là tóm tắt trích lược. Ai muốn hiểu rõ sự thật về các chính sách covid thì nên đọc kỹ toàn bộ báo cáo này, thậm chí là phải đào sâu vào 400 nguồn trích dẫn được sử dụng trong báo cáo, thì mới thật sự là hiểu.

-  Ngoài ra, tham khảo thêm báo cáo 269 trang của Ban chuyên trách đánh giá dữ liệu dịch Covid (Alberta, Canada) tháng 01/2025, cũng là một báo cáo trung thực có giá trị, đánh giá các sai trái trong quá trình chống dịch covid. [11a][11b] [12]

(Báo cáo khoa học trên chỉ ra được một sự thật rất quan trọng: nguyên nhân của các chính sách chống dịch chính là nỗi sợ hãi. Nhưng trong bài viết tiếp theo, người viết sẽ đào sâu hơn nữa về vấn đề này, và chỉ ra một nguyên nhân còn sâu xa hơn về tư duy của giới tinh hoa cầm quyền dẫn đến các chính sách này!)

.

.

.

--------------------------------

Cập nhật 13/09/2025:

Sự thật khoa học về vaccine covid mRNA (3)

1) Đã có hàng ngàn nghiên cứu khoa học đưa ra bằng chứng về tác hại của vaccine covid mRNA, với vô số cơ chế khác nhau.

2) Vaccine mRNA không đạt tiêu chuẩn chất lượng của một loại thuốc tiêm cho người:

-  mRNA nguyên vẹn chỉ đạt 55-78%; hoạt động sai thiết kế, tạo ra protein gai rác và phản ứng miễn dịch không xác định; chứa lượng DNA tạp (tạp chất) vượt xa mức cho phép!

-  Các lô vaccine khác nhau có tỉ lệ tác dụng phụ khác xa nhau!

1) Có hàng ngàn nghiên cứu khoa học đưa ra bằng chứng về tác hại của vaccine covid mRNA, với vô số cơ chế khác nhau.

Sự thật là vaccine covid mRNA gây ra vô số những biến chứng khác nhau không thể lường được, và số lượng bằng chứng khoa học là khổng lồ:

- Hơn 3.500 nghiên cứu khoa học về các tác hại của vaccine covid. [1]

- Cơ sở dữ liệu 750 nghiên cứu khoa học chỉ ra hàng loạt cơ chế gây hại của vaccine covid mRNA. [2]

- Hơn 100 nghiên cứu khoa học về 17 cơ chế gây ung thư của vaccine covid. [3]

- Báo cáo tổng hợp khoa học năm 2025 về vaccine covid mRNA. [4]

- Tổng hợp về các bằng chứng gây hại của vaccine covid của Trần Thế Hiệp [5] và vô số những chuyên gia, nhà khoa học khắp nơi trên thế giới. [6]

- Tổng hợp hàng loạt số liệu khoa học cho thấy vaccine covid gây gia tăng bệnh tật lẫn tử vong! [7]

Những sự thật khoa học này đã bị truyền thông và các cơ quan y tế bưng bít và phủ nhận một cách dối trá, nên chưa được nhìn nhận rộng rãi! [8]

 

2) Vaccine mRNA không đạt tiêu chuẩn chất lượng để tiêm cho người:

Vaccine covid mRNA là loại vaccine tệ hại nhất lịch sử, chất lượng của nó hoàn toàn không được kiểm soát chặt chẽ như một dược phẩm để tiêm vào người.

a) Lượng mRNA nguyên vẹn chỉ đạt 55-78%:

-  Một dược phẩm phải có hàm lượng hoạt chất không được thấp dưới 90% mức công bố (có thể đối mặt với án hình sự vì tội bán thuốc giả). Trong vaccine mRNA, thì mRNA nguyên vẹn chính là hoạt chất, và nó chỉ đạt 55-78%!

-  Thông tin này nằm trong chính báo cáo của Cơ quan Y tế châu Âu và báo cáo khoa học “The EMA covid-19 data leak, and what it tells us about mRNA instability” trên BMJ [9] [9b]. Xem Bài chi tiết [10] đã viết về vấn đề này.

mRNA nguyên vẹn 55~78% tức là mRNA không nguyên vẹn (rác) chiếm đến 32~45%, và nó sẽ tạo ra những tác hại gì thì chưa ai biết được!!!

 

b) Vaccine mRNA hoạt động sai thiết kế, tạo ra protein gai rác và phản ứng miễn dịch không xác định, thậm chí ung thư:

Vaccine mRNA hoạt động sai thiết kế!

-  Theo nguyên tắc, mRNA được đưa vào tế bào phải được dịch mã gien để tạo ra protein đúng thiết kế (giống với protein gai của virus gây covid). Tuy nhiên, modRNA trong vaccine mRNA lại bị dịch mã sai (do frameshift: dịch lệch khung), dẫn đến 8% số protein được tạo ra là sai thiết kế, tức là protein “rác”!

-  8% là số lượng rất lớn khi xét hàng tỷ phân tử mRNA được tiêm vào người, có thể nói là tất cả người tiêm đều có tạo ra protein rác. Và trong đó, báo cáo khoa học bước đầu xác định được rằng có khoảng 1/3 số người trong nghiên cứu cho thấy có phản ứng miễn dịch ngoài thiết kế đối với các protein rác này!

-  Điều này đã được một báo cáo khoa học chấn động năm 2024 chỉ ra [11], tựa đề “N1-methylpseudouridylation of mRNA causes +1 ribosomal frameshifting”, được thực hiện bởi một nhóm nhà khoa học danh tiếng và xuất bản trên Nature. Xem Bài chi tiết [12] đã viết về vấn đề này.

Một sản phẩm miễn dịch mà lại tạo phản ứng miễn dịch bất định và sai thiết kế? Đây là chuyện không thể chấp nhận được!!

Và một báo cáo khoa học khác lại chỉ ra rằng vấn đề này là một cơ chế có thể dẫn đến ung thư! [13] [3]

 

c) Vaccine mRNA chứa đầy DNA tạp tồn dư trong quá trình sản xuất!

Từ năm 2023, hàng loạt nghiên cứu thí nghiệm bắt đầu chỉ ra một sự thật bị che giấu: vaccine mRNA chứa đầy DNA tạp, tồn dư trong quá trình sản xuất do quy trình kém chất lượng. Lượng DNA tạp tồn dư này vượt xa mức quy định cho phép, và còn được các hạt lipid nano LNP đưa thẳng vào tế bào! [14] [15] [16] [17]

Nghiên cứu khoa học cho biết đây là vấn đề rất nghiêm trọng, có nguy cơ gây ung thư [16] [17] [18]. Lý thuyết còn cho biết DNA tạp này có thể gây biến đổi gien, và đã có nghiên cứu xác nhận sơ bộ! [19]

Cuối năm 2024, nghiên cứu từ chính phòng thí nghiệm của FDA xác nhận lượng DNA tồn dư vượt quá mức cho phép từ 6 đến 470 lần! [20] Tờ báo của Bộ Y tế VN cũng đã đăng tin về vấn đề này, có nêu rõ nguy cơ ung thư đột biến gien. [18]

d) Các lô vaccine khác nhau gây ra tỉ lệ tác dụng phụ rất khác nhau!

Các ý a), b) và c) ở trên cho thấy một sự thật rõ ràng: vaccine covid mRNA có sự kiểm soát chất lượng cực kỳ kém. Và khi chất lượng không ổn định, thì tác dụng phụ (lẫn tác dụng chính) đều sẽ dao động và không ổn định!

Năm 2023, một nghiên cứu từ Đan Mạch “Batch-dependent safety of the BNT162b2 mRNA COVID-19 vaccine” đã chỉ ra rõ nét điều này: các lô vaccine có sự biến động lớn về tỷ lệ báo cáo tai biến sau tiêm nghiêm trọng (SAEs). [21]  

-  Một số lô có tỷ lệ tai biến sau tiêm nghiêm trọng rất thấp và gần như không có ca tử vong liên quan. Trong khi đó, một số lô khác lại có tỷ lệ báo cáo tai biến sau tiêm nghiêm trọng và báo cáo tử vong cao hơn rõ rệt so với trung bình.

-  Nhóm tác giả cho biết sự khác biệt này không liên quan đến tuổi tác người tiêm. [21b-note]

Năm 2024, nghiên cứu khoa học Đan Mạch “Reports of Batch-Dependent Suspected Adverse Events of the BNT162b2 mRNA COVID-19 Vaccine: Comparison of Results from Denmark and Sweden” tiếp tục phân tích dữ liệu tác dụng phụ tại Thụy Điển, và xác nhận vấn đề trên! [22]

Biểu đồ trong báo cáo khoa học cho thấy rõ điều này, với 3 đường biểu diễn khác biệt rõ rệt từ các lô vaccine khác nhau, ở cả Đan Mạch lẫn Thụy Điển:

 

3) Kết luận:

-  Sự thật là vaccine covid, mà đặc biệt là vaccine mRNA (Pfizer & Moderna, của Mỹ), là một loại vaccine kém chất lượng ở mức không thể chấp nhận được: tỉ lệ hoạt chất không đạt, hoạt động sai thiết kế, tồn dư tạp chất vượt xa mức cho phép và các lô khác nhau thì lại có tỉ lệ tác dụng phụ khác xa nhau!  

-  Chất lượng kém cỏi đó của vaccine covid mRNA đã gây ra một thảm họa y tế trên toàn cầu, với một lượng bằng chứng khoa học khổng lồ, như đã chỉ ra ở trên.

-  Tuy nhiên, những bằng chứng và sự thật khoa học này đã bị truyền thông và các cơ quan y tế bưng bít và phủ nhận một cách dối trá, [8] nên chưa đến được với đa số người dân. Tuy nhiên, sự thật đang được ghi chép lại rõ ràng và đến một ngày sẽ được phơi bày!

.

.

--------------------------------

Cập nhật 08/02/2025:

Sự thật khoa học về vaccine covid mRNA (2)

Báo cáo khoa học mới từ Mỹ:

-  Hơn 81.000 bác sĩ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu và công dân kêu gọi thu hồi vaccine COVID-19.

Tiêm chủng đại trà COVID-19 có khả năng dẫn đến gia tăng tử vong, lên đến hàng triệu người chết!

-  Tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo vượt xa giới hạn thu hồi của các đợt rút vaccine trong quá khứ, lên đến 3753 lần!

-  Vaccine covid gây ra hiệu quả âm, tức là làm gia tăng nguy cơ nhiễm covid cho người tiêm!

-  Tồn dư DNA tạp trong vaccine COVID-19 vượt xa giới hạn cho phép, gây nguy cơ tích hợp gienung thư!

 

Ngày 28/01/2025, một báo cáo khoa học quan trọng từ Mỹ được xuất bản (đã peer-reviewed), phơi bày mặt tối của vaccine covid, tựa đề “Review: Calls for Market Removal of COVID-19 Vaccines Intensify as Risks Far Outweigh Theoretical Benefits”. [1] Trong bài này, người viết sẽ dịch nguyên văn những trích đoạn đáng chú ý từ báo cáo khoa học (chữ màu xanh), kèm theo phần tóm tắt những đoạn đã lược bỏ vì quá dài (chữ màu đen in nghiêng, trong ngoặc):

Báo cáo tổng hợp: Các lời kêu gọi loại bỏ Vắc-xin Covid-19 ngày càng tăng, khi rủi ro vượt xa lợi ích lý thuyết

Tóm tắt:

“Các chiến dịch tiêm chủng COVID-19 trên toàn cầu đã không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản về an toàn và hiệu quả, dẫn đến lượng bằng chứng về tác hại nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Hơn 81.000 bác sĩ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu và công dân, 240 quan chức chính phủ được bầu, 17 tổ chức y tế công cộng và chuyên nghiệp, 2 đảng Cộng hòa cấp tiểu bang, 17 ủy ban cấp hạt đảng Cộng hòa và 6 nghiên cứu khoa học từ khắp nơi trên thế giới đã kêu gọi rút vaccine COVID-19 khỏi thị trường. Tính đến ngày 6 tháng 9 năm 2024, CDC đã ghi nhận 19.028 ca tử vong tại Hoa Kỳ được báo cáo cho Hệ thống Báo cáo Tai biến Vaccine (VAERS) bởi các chuyên gia y tế hoặc công ty dược phẩm tin rằng sản phẩm này có liên quan đến tử vong. Tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo cho VAERS (37.544 ở tất cả các quốc gia tham gia) đã vượt xa giới hạn thu hồi của các đợt thu hồi vaccine trong quá khứ lên đến 375.340%. Tiêu chí cho việc thu hồi Loại I của FDA, áp dụng cho các sản phẩm có khả năng gây hậu quả sức khỏe nghiêm trọng hoặc tử vong ở mức vừa phải, đã bị vượt xa. Tỷ lệ tử vong vượt mức, hiệu quả âm, tồn dư DNA tạp phổ biến và sự thiếu bằng chứng về giảm lây lan, nhập viện hoặc tử vong đã làm suy yếu lý do để vẫn tiếp tục sử dụng. Những vấn đề đòi hỏi sự quản lý này nhấn mạnh những thiếu sót đáng kể trong giám sát dữ liệu về tính an toàn và giảm thiểu rủi ro. Việc loại bỏ ngay lập tức vaccine COVID-19 khỏi thị trường là cần thiết để ngăn chặn tiếp tục tổn thất sinh mạng và đảm bảo các bước tiếp theo được thực hiện để xác định trách nhiệm về tác hại đã gây ra.”

Giới thiệu

CDC báo cáo 1.212.008 trường hợp tử vong xảy ra từ ngày 1 tháng 1 năm 2020 đến ngày 23 tháng 11 năm 2024, với xét nghiệm dương tính với COVID-19 tại thời điểm trước khi tử vong [5]. Trong số đó, 94% ở độ tuổi trên 50. Nếu việc điều chỉnh sai lệch  được thực hiện bởi các bác sĩ lâm sàng, chúng tôi ước tính khoảng 10% tổng số tử vong (121.200 ca) có thể do viêm phổi COVID-19 là nguyên nhân chính. Procter và cộng sự đã công bố rằng 85% số ca tử vong này có thể tránh được bằng các phác đồ đa thuốc sớm bắt đầu từ ngày đầu tiên tại nhà [6]…

Hình 1 cho thấy, tính đến ngày 6 tháng 9 năm 2024, CDC đã ghi nhận 19.028 ca tử vong do vaccine COVID-19 tại Hoa Kỳ được báo cáo trong Hệ thống VAERS bởi các chuyên gia y tế hoặc công ty dược phẩm tin rằng sản phẩm có liên quan đến tử vong . Khoảng 1.175 ca tử vong xảy ra vào cùng ngày tiêm chủng và 1.250 ca vào ngày hôm sau. Các ca tử vong được báo cáo trong VAERS được ước tính bị báo cáo thiếu với hệ số nhân ở mức thận trọng là 31, dựa trên so sánh giữa tỷ lệ sự kiện bất lợi nghiêm trọng (SAE) dự kiến từ thử nghiệm lâm sàng và các báo cáo quan sát được trong VAERS … Điều này có nghĩa là số ca tử vong do vaccine COVID-19 tại Hoa Kỳ có thể lên tới 589.868 ca (19.028 x 31). Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, số người Mỹ chết do tiêm vaccine COVID-19 có thể nhiều hơn do nhiễm SARS-CoV-2.

hơn 3.400 nghiên cứu khoa học được bình duyệt trong y văn về các tổn thương do vaccine COVID-19 gây tử vong và không tử vong, bao gồm các tổn thương được cơ quan quản lý trên toàn thế giới công nhận như viêm cơ tim, tổn thương thần kinh, huyết khối và hội chứng miễn dịch…

Hình 1. Báo cáo Tai biến sau tiêm Vaccine COVID-19 tại Hoa Kỳ qua VAERS. Được điều chỉnh từ OpenVAERS.

 

Tỷ lệ tử vong vượt mức

Thay vì cứu sống, tiêm chủng đại trà COVID-19 có khả năng dẫn đến tử vong gia tăng (Bảng 1) [9-20]. Nghiên cứu khám nghiệm tử thi lớn nhất được công bố đến nay chỉ ra rằng 73,9% ca tử vong sau tiêm chủng là do vaccine COVID-19 trực tiếp gây ra hoặc đóng góp đáng kể, cho thấy khả năng cao về mối liên hệ nhân quả giữa vaccine COVID-19 và tử vong . Đến tháng 9 năm 2023, Rancourt và cộng sự ước tính 17 triệu ca tử vong liên quan đến vaccine COVID-19 trên toàn thế giới . Mostert và cộng sự báo cáo 3,1 triệu ca tử vong vượt mức có thể do vaccine COVID-19 và các biện pháp phong tỏa tại 47 quốc gia phương Tây từ năm 2020 đến 2022 …

Tại Hoa Kỳ, Skidmore ước tính 278.000 người Mỹ có thể đã chết do vaccine COVID-19 vào tháng 12 năm 2021 , trong khi Pantazatos và Seligmann dự đoán từ 146.000 đến 187.000 ca tử vong liên quan đến vaccine vào tháng 8 năm 2021 . Hulscher và cộng sự ước tính 49.240 ca tử vong vượt mức do ngừng tim tại Hoa Kỳ từ năm 2021 đến 2023, có khả năng liên quan đến vaccine COVID-19 …

Rodrigues và Andrade phát hiện vaccine COVID-19 làm tăng gần gấp đôi nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân sau một năm nhiễm COVID [20].

(Tóm tắt phần không được dịch: Báo cáo tiếp tục điểm qua các nghiên cứu khoa học khác về tử vong vượt mức và gia tăng nguy cơ tử vong ở người tiêm vaccine covid, từ các nhóm nghiên cứu: Aarstad và Kvitastein, Alessandria và cộng sự, Lataster, Allen, Kuhbandner và Reitzner)

Bảng 1. Tử vong vượt mức do vaccine COVID-19.

 

Chỉ định Thu hồi Loại I FDA

Ngưỡng thu hồi Loại I của FDA—được định nghĩa là tình huống mà việc sử dụng hoặc tiếp xúc với sản phẩm vi phạm có khả năng hợp lý gây hậu quả sức khỏe nghiêm trọng hoặc tử vong —đã bị vượt xa. Điều này liên quan đến việc rút hoàn toàn sản phẩm khỏi thị trường…

Tính đến ngày 26 tháng 4 năm 2024, theo VAERS, tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo (37.544 ở tất cả các quốc gia sử dụng VAERS) đã vượt xa giới hạn thu hồi của các đợt rút vaccine trong quá khứ lên đến 375.340% (Hình 2) [25, 26]. Năm 1955, vaccine bại liệt Cutter đã bị thu hồi ngay lập tức sau 10 báo cáo tử vong . Vaccine cúm lợn năm 1976 bị thu hồi sau 53 ca tử vong được báo cáo . Năm 1999, vaccine Rotashield bị đình chỉ sau 15 trường hợp lồng ruột . Sự tương phản đáng kể giữa các báo cáo tử vong do vaccine COVID-19 và các đợt thu hồi vaccine trong lịch sử cho thấy những thiếu sót đáng kể trong giám sát an toàn dữ liệu…

Tính đến ngày 26 tháng 4 năm 2024, theo VAERS, tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo (37.544 ở tất cả các quốc gia sử dụng VAERS) đã vượt xa giới hạn thu hồi của các đợt rút vaccine trong quá khứ lên đến 375.340% (Hình 2).

Hình 2. Ca tử vong được báo cáo cho các đợt thu hồi thuốc/vaccine lớn so với tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo cho VAERS. *Hình được in lại từ Rhodes và Parry, những người đã được VAERS Analysis cho phép sử dụng hình của họ .

 

Hiệu quả ÂM

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng những người được tiêm vaccine COVID-19 có thể đối mặt với nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn so với người chưa tiêm. Eythorsson và cộng sự phát hiện những người được tiêm hai liều trở lên có nguy cơ tái nhiễm cao hơn 42% so với những người tiêm một liều hoặc ít hơn . Chemaitelly và cộng sự ước tính hiệu quả của vaccine Pfizer-BioNTech (BNT162b2) và Moderna (mRNA-1273) chống lại các biến thể phụ Omicron giảm đáng kể, đạt mức hiệu quả âm (-17,8% và -12,1% cho Pfizer; -10,2% và -20,4% cho Moderna) sau bảy tháng . Shrestha và cộng sự phát hiện nguy cơ nhiễm COVID-19 tăng phụ thuộc vào liều lượng, với những người tiêm hơn ba liều có nguy cơ cao hơn 253% so với người chưa tiêm . Tương tự, Feldstein và cộng sự tiết lộ trẻ em từ 6 tháng đến 4 tuổi được tiêm chủng không có tiền sử nhiễm bệnh có khả năng nhiễm bệnh cao hơn 159% và phát triển COVID-19 có triệu chứng cao hơn 257% so với trẻ chưa tiêm…

 

Tồn dư DNA tạp

Các nghiên cứu điều tra tồn dư DNA tạp và khả năng tích hợp gen từ vaccine COVID-19 đã tiết lộ những phát hiện đáng lo ngại (Bảng 2) [33-44]. McKernan và cộng sự từ Medicinal Genomics (Hoa Kỳ) báo cáo mức DNA vượt xa ngưỡng an toàn trong vaccine Pfizer và Moderna, với đo lường lên tới 3.390 ng mỗi liều bằng các phương pháp electrophoresis và fluorometer. Phát hiện của họ có bằng chứng về tích hợp gen và các trình tự SV40 trong tế bào ung thư, dẫn đến các lo ngại được báo cáo cho FDA và trình bày tại Hội đồng Y tế Thế giới (WCH) [33-35]…

Buckhaults (Hoa Kỳ) chứng minh DNA tích hợp vào tế bào gốc biểu mô người…

Kämmerer và cộng sự (Đức)… chứng minh DNA từ vaccine có thể chuyển giao vào tế bào HEK293, làm dấy lên lo ngại về tích hợp gen và sự kiện bất lợi tiềm ẩn .

(Tóm tắt phần không được dịch: Báo cáo tiếp tục điểm qua các nghiên cứu khoa học khác xác định tồn dư DNA tạp trong vaccine covid, từ các nhóm nghiên cứu: König và Kirchner (Đức), Speicher, Rose và McKernan và cộng sự (Canada), Raoult và cộng sự (Pháp), Wang và cộng sự (Hoa Kỳ))

Bảng 2. Xác minh Tồn dư DNA tạp trong Vaccine mRNA trên Thế giới. Ô đỏ chỉ mức ô nhiễm DNA vượt giới hạn quy định 10 ng mỗi liều lâm sàng. Tạo bảng và trích xuất dữ liệu bởi Tiến sĩ Kenji Fujikawa, Viện Thống kê Y tế, Thông tin và Truyền thông, Nhật Bản.

Những phát hiện này chỉ ra rằng tồn dư DNA tạp, được báo cáo trên nhiều nhà sản xuất, nền tảng vaccine và khu vực địa lý, vượt xa ngưỡng khuyến nghị của các cơ quan quản lý như Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMA) và FDA, thường đặt dưới 10 ng mỗi liều lâm sàng . Hơn nữa, mức tồn dư DNA tạp dưới ngưỡng quy định vẫn có thể gây rủi ro sức khỏe đáng kể. Sự hiện diện của các trình tự như SV40 làm dấy lên rủi ro tiềm ẩn về tích hợp gen và gây ung thư [46, 47].

 

Lời kêu gọi Rút vaccine COVID-19 khỏi Thị trường

Hơn 81.000 bác sĩ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu và công dân quan tâm, 240 quan chức chính phủ được bầu, 17 tổ chức y tế công cộng và chuyên nghiệp (Hình 3), 2 đảng Cộng hòa cấp tiểu bang, 17 ủy ban quận của đảng Cộng hòa và 6 nghiên cứu khoa học từ khắp thế giới đã kêu gọi rút vaccine COVID-19 khỏi thị trường (Bảng 3). Tổ chức Bác sĩ vì Đạo đức COVID (Doctors for COVID Ethics) kêu gọi thu hồi toàn cầu vaccine COVID-19 vào ngày 10 tháng 3 năm 2021 . Tháng 5 năm 2021, Bruno và cộng sự (50 tác giả) kêu gọi tạm dừng chương trình tiêm chủng đại trà nếu các chương trình tiêm chủng trên toàn cầu không thiết lập các hội đồng giám sát an toàn dữ liệu độc lập (DSMB), ủy ban xét xử sự kiện (EAC) và thực hiện giảm thiểu rủi ro…  

Tháng 5 năm 2022, Hội nghị Thượng đỉnh COVID Toàn cầu, bao gồm hơn 17.000 bác sĩ và nhà khoa học, tuyên bố "các mũi tiêm liệu pháp gen thử nghiệm COVID-19 phải chấm dứt" … Hiệp ước HOPE, một nhóm quốc tế gồm các chuyên gia y tế, nhà khoa học, học giả và công dân quan tâm, đã kêu gọi đình chỉ ngay lập tức vaccine mRNA COVID-19 và đánh giá toàn diện về tính an toàn và hiệu quả vào ngày 3 tháng 7 năm 2024 . Hiệp ước này đã nhận được 64.168 chữ ký từ các chuyên gia y tế, nhà nghiên cứu và công dân nổi bật, những người cho rằng bằng chứng mới xuất hiện cho thấy các sản phẩm vaccine mới này có thể góp phần làm tăng tỷ lệ thương tật và tử vong vượt mức.

(Tóm tắt phần không được dịch: Báo cáo liệt kê hàng loạt yêu cầu/ kêu gọi chấm dứt vaccine covid khác, từ: Hội đồng Y tế Thế giới (WCH), Hiệp hội Chuyên gia Y tế và Nhà nghiên cứu Độc lập (APSIIN), Quỹ McCullough, Hiệp hội Bác sĩ và Bác sĩ Phẫu thuật Hoa Kỳ (AAPS), Chất vấn Công dân Quốc gia Canada, Tổ chức Người Mỹ vì Tự do Y tế (Americans for Health Freedom), America’s Frontline Doctors, Frontline COVID-19 Critical Care Alliance, Health Advisory and Recovery Team, Dự án Y tế Toàn cầu và Hội nghị Thượng đỉnh COVID Toàn cầu, Giám đốc Sở Y tế Florida, New Zealand Doctors Speaking Out with Science (NZDSOS), VERITY France, Nhóm NORTH, Tổ chức Bảo vệ Sức khỏe Trẻ em (CHD), các Nghị viện Châu Âu và Úc, các báo cáo khoa học từ 02 báo cáo khoa học từ Mead và cộng sự Rogers và cộng sự, Oldfield và cộng sự, Kämmerer và cộng sự…)

Hình 3. Các tổ chức kêu gọi thu hồi vắc-xin Covid-19.

Bảng 3. Những lời kêu gọi thu hồi Vắc-xin Covid-19.

Kết luận

Chúng tôi dự đoán rằng các lời kêu gọi về việc tạm dừng ngay lập tức các loại vắc-xin COVID-19 sẽ tiếp tục gia tăng cho đến khi đạt đủ sức nặng, và cuối cùng các sản phẩm này sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường. Tử vong vượt mức, hiệu quả âm, và tồn dư DNA tạp tràn lan liên quan đến vắc-xin COVID-19 đã được chứng minh đầy đủ. Các tiêu chí của FDA về việc thu hồi cấp độ I đã bị vượt quá xa. Không có thử nghiệm quy mô lớn, thuyết phục, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược nào chứng minh được các kết quả chính về việc giảm lây lan, nhập viện, hoặc tử vong. Do đó, vắc-xin COVID-19 chưa hề được chứng minh là có hiệu quả trong việc giảm các kết quả lâm sàng quan trọng. Việc ủng hộ tiêm chủng COVID-19 đi ngược lại sự thực hành y tế tốt và vi phạm Lời thề Hippocrates: không gây hại là trên hết. Việc loại bỏ ngay lập tức vắc-xin COVID-19 khỏi thị trường là điều cần thiết để ngăn chặn thêm tổn thất về sinh mạng và đảm bảo các bước tiếp theo về trách nhiệm giải trình được thực hiện.

 

Nhận định:

-  Đây là một báo cáo khoa học tổng hợp rất tốt về sự thật của vaccine covid, nên được đọc kỹ và lan truyền rộng rãi.

-  Mặc dù có quá nhiều thứ về vaccine covid để có thể viết hết, nhưng báo cáo khoa học trên đã làm rất tốt trong việc tổng hợp các sự thật quan trọng về vaccine covid. Người viết đồng ý với tất cả những ý trên, và hầu hết tất cả các ý đều đã được viết kỹ trong các bài viết khác.

Các bài tham khảo liên quan:

Bài 53: hàng ngàn bác sĩ, chuyên gia, nhà khoa học nói lên sự thật về covid.

Bài 48: hàng ngàn nghiên cứu khoa học về tác hại của vaccine covid, bao gồm tồn dư DNA tạp.

Bài 42: hiệu quả âm của vaccine covid và sự gia tăng tử vong vượt mức.

Bài 46: về sự dối trá của các cơ quan y tế về covid, và cũng là nguyên nhân tại sao các sự thật này không được biết đến rộng rãi!

.

.

.

--------------------------------

Cập nhật 23/03/2025:

Sự thật về nguồn gốc covid

1) Virus SARS-CoV-2 là virus nhân tạo, xuất phát từ phòng thí nghiệm.

2) Nhiều chính phủ, tổ chức khoa học, truyền thông… đã tham gia vào một vụ lừa dối dân chúng trên quy mô toàn cầu suốt 5 năm qua về vấn đề này.

.

.

--------------------------------

Cập nhật 01/01/2025:

Sự thật: Vaccine covid mRNA gây biến đổi gien!

Hàng trăm bác sĩ, chuyên gia… từ 10+ nước Châu Âu tuyên bố các sự thật về vaccine covid (mRNA) và kêu gọi dừng lại ngay lập tức:

1) Sự thật 1: Vaccine covid không có tác dụng chống lây truyền => đây là một lời nói dối mà các cơ quan y tế trên toàn thế giới đã sử dụng để o ép toàn xã hội tiêm vaccine (“tiêm để bảo vệ người khác”)!  (đã chứng minh tại bài 42)

2) Sự thật 2: Có đến hàng ngàn nghiên cứu khoa học về tác hại của vaccine covid.  (hơn 3.500 nghiên cứu, bài 48)

3) Sự thật 3: Vaccine mRNA (Pfizer, Moderna) tồn dư DNA tạp có nguồn gốc vi khuẩn, gây nguy cơ biến đổi gien, ung thư, biến đổi di truyền cho con cái…  (xem loạt bài Tồn dư DNA tạp)

4) Sự thật 4: Các cơ quan quản lý y tế đã và đang cố gắng che đậy số liệu tệ hại về vaccine covid.  (xem bài 46)

.

------------------------------------------

Cập nhật 08/05/2024:

1) Châu Âu rút giấy phép vaccine Astrazeneca, Astrazeneca thu hồi vaccine trên toàn cầu sau khi bị kiện và phải thừa nhận vaccine có thể gây đông máu & có thể tử vong.

- Trước đó, năm 2021, hàng loạt quốc gia dừng/ ngưng sử dụng vaccine này (vô thời hạn), nhưng đẩy sang VN tiêu thụ!

2) Sự thật từ tài liệu của chính hãng Astrazeneca:

-  Vaccine này là một ‘Vaccine biến đổi gien’, có thành phần chính là ‘Sinh vật biến đổi gien’ (GMO)!

-  Vaccine này được nuôi cấy trên các tế bào thận từ bào thai người!

.

------------------------------------------------

Cập nhật 06/01/2024:

SỰ THẬT VỀ CÁC CHÍNH SÁCH CHỐNG DỊCH (2)

1) Tin tức báo chính thống:

-  Các cơ quan y tế công đã tạo ra sự hoảng loạn, một cách ‘CỐ Ý’. (bài báo tiếng Việt bỏ mất chữ này!)

-  Sự hoảng loạn này dẫn đến HÀNG TRĂM NGÀN CÁI CHẾT không do covid.

-  Phong tỏa: Tác hại GẤP 5 LẦN lợi ích.

-  Hầu hết các quốc gia tập trung chôn vùi sai lầm của Chính phủ và né tránh trách nhiệm giải trình!!

2) Đọc lại bài cũ:

-  100.000 tin nhắn bị lộ chứng minh sự CỐ Ý gieo rắc hoảng loạn để thúc đẩy cách chính sách sai trái!

Hàng ngàn bác sĩ, nhà khoa học đã vạch trần sự dối trá trong dịch covid, bao gồm phong tỏa. Nhưng bị phớt lờ và bôi nhọ!

3) Tại sao phong tỏa (và cách ly, khẩu trang…) không có tác dụng?

-  Bởi vì covid lây trong không khí, chứ không phải chỉ qua ‘giọt bắn’. Đó là một sự dối trá cố ý vào đầu dịch! 

.

------------------------------------------------

Cập nhật 25/06/2023:

SỰ THẬT VỀ TỬ VONG DO COVID – VIỆT NAM

1) Sau khi có vaccine, tử vong “do covid” ở Việt Nam TĂNG 1.200 LẦN!

- 14 tháng dịch trước khi có vaccine: 35 người chết (do covid).

- 14 tháng dịch khi có vaccine: 43.000 người chết (do covid??).

2) Joel Smalley: do vaccine covid.

3) Bs. Lương Trường Sơn: do các khu cách ly, không được điều trị các bệnh nền, suy sụp & kiệt quệ, và dùng máy thở sai cách!

.

------------------------------------------------

Cập nhật 13/04/2023:

SỰ THẬT VỀ TỬ VONG DO COVID

1) KHÔNG CÓ TRẺ EM KHỎE MẠNH CHẾT VÌ COVID: Nghiên cứu khoa học từ Mỹ, Đức và Thụy Sĩ, với số liệu trên hàng triệu trẻ em ở 3 quốc gia này. 

2) Báo cáo của chính CDC Mỹ: 99% người được ghi nhận chết với covid đều có bệnh nền, chỉ có 1% không có bệnh nền!

3) 31 nghiên cứu khoa học: Rủi ro tử vong do nhiễm covid (IFR) trước khi có vaccine là 0,15%, rất thấp (NGANG CÚM). Cụ thể là:

-     Từ 0-19 tuổi: 0,0003%.  20-29t: 0,002%.  30-39t: 0,011%.  40-49t: 0,035%.  50-59t: 0,123%.  60-69t: 0,506%.  0-59t: 0,034%.  0-69t: 0,095%. (bao gồm cả bệnh nền!)

-     Số liệu thống kê tại châu Âu, Mỹ, Canada: đại đa số người chết với covid đều là trên 65 tuổi!!! 

.

------------------------------------------------

Cập nhật 31/03/2023:

1) Video clip phụ đề tiếng Việt:

- Gs. Bs. Marty Makary (ĐH Johns Hopkins) VẠCH TRẦN 10 ĐIỀU DỐI TRÁ VỀ DỊCH COVID trong hội nghị bàn tròn của Quốc hội Mỹ.

Gs. Bs. Jay Bhattacharya (ĐH Standford): một nhóm quan chức y tế quyền lực đã tuyên truyền dối trá núp bóng “khoa học”.

- Thống đốc Florida tái khẳng định những điểm dối trá và cho biết “Họ sử dụng quyền lực, cấu kết và áp đặt những thông tin tuyên truyền sai trái về covid

2) Toàn văn bài báo của Bs. Marty Makary vạch trần 10 điều dối trá về dịch covid.

Link Rumble của video clip. (Ghi chú: xem trên Rumble, tiếng và hình lệch nhau 1-2 giây, tải về xem thì không bị)

.

------------------------------------------------

Cập nhật 08/03/2023:

SỰ THẬT VỀ CÁC CHÍNH SÁCH CHỐNG DỊCH

1) HÀNG TRĂM nghiên cứu khoa học xác định Miễn dịch tự nhiên hiệu quả HƠN vaccine.

2) HÀNG TRĂM nghiên cứu khoa học xác định Khẩu trang KHÔNG hiệu quả trong việc giảm lây lan covid (và còn gây hại).  

3) HÀNG TRĂM nghiên cứu khoa học xác định Giãn cách xã hội KHÔNG hiệu quả trong việc giảm lây lan covid (và còn gây hại).

Lý do của những tuyên bố phản khoa học về những vấn đề trên là để thúc đẩy vaccine, với tin nhắn bị lộ của cựu Bộ trưởng Anh là bằng chứng.


------------------------------------------------

Ngày 06/01/2023:

CẬP NHẬT COVID: ĐÂU LÀ SỰ THẬT?

Đại dịch COVID-19 là một trong những sự kiện bệnh truyền nhiễm bị thao túng nhiều nhất trong lịch sử, với một dòng chảy không hồi kết những lời dối trá chính thống được dẫn dắt bởi các cơ quan chính phủ, hiệp hội y tế, hội đồng y tế, giới truyền thông và các cơ quan quốc tế.

Bs. Russell Blaylock.

 


No comments:

Post a Comment