1) Virus SARS-CoV-2
là virus nhân tạo, xuất phát từ phòng thí
nghiệm.
2) Nhiều chính phủ,
tổ chức khoa học, truyền thông… đã tham gia vào một vụ lừa
dối dân chúng trên quy mô toàn cầusuốt 5 năm qua về vấn đề này.
1) Virus
SARS-CoV-2 là 1 con virus nhân tạo:
Nhiều bằng chứng về nguồn gốc covid đã được phân
tích chi tiết trong loạt bài 47,
[1] bài này tóm
tắt các sự kiện chính và xâu chuỗi lại.
Quá trình dẫn đến
covid:
- Trước covid, đã có nhiều nghiên cứu tăng cường
chức năng(gain-of-function) nhằm tạo ra virus mới. Vào năm 2014, do
Obama cấm thực hiện các nghiên cứu này trên đất Mỹ, [2] [2b] nên các nhà
khoa học Mỹ đã chuyển sang hợp tác với Trung Quốc để tiếp tục.
- 2014-2019, hàng loạt thử nghiệm tăng cường
chức năng virus corona được thực hiện tại Vũ Hán, mà các chuyên gia tin
rằng đã dẫn tới đại dịch covid, với các nhân vật chủ chốt: Ts. Ralph Baric
(Đại học North Carolina, Mỹ, chuyên gia hàng đầu về lai tạo virus), Peter
Daszak (EcoHealth Alliance), Ts. Shi Zhengli và Ts. Ben Hu (Viện
virus học Vũ Hán). Báo cáo điều tra của Ủy ban Ngoại vụ thuộc Hạ viện Mỹ (2021)
đã viết rất chi tiết về giai đoạn này. [3] Tương tự với báo cáo 300 trang của nhóm
nghị sĩ Mỹ (2023) [4]
[4b]
và một báo cáo của MIT Technology Review.
Bằng chứng
khoa học:
- Sau khi đại dịch nổ ra, nhiều nghiên cứu phân
tích gien ngay lập tức chỉ ra rằng nCov là một con virus nhân tạo, với nhiều
đoạn gien HIV. [5] [6] Nhà virus học nhà đầu thế giới từng đoạt giải
Nobel, Gs. Luc Montagnier cũng công bố nghiên cứu [6] và trả lời
phỏng vấn [7] xác thực vấn
đề này. [8]
- Nghiên cứu khoa học cũng phát hiện ra được
một đoạn gien trong virus SARS-CoV-2 đã nằm trong bằng sáng chế của Modernatừ 2017. Tính
toán cho biết xác suất này xảy ra tự nhiên chỉ có 1 phần 30 tỷ! [10] [8]
- Một nghiên cứu quan trọng khác được công bố
năm 2022. [11] Ts. Alex
Washburne, một trong số các tác giả, đã viết bài giải thích chi tiết hơn,
rằng với kết quả nghiên cứu trên, xác suất mà virus gây covid không phải nhân
tạo chỉ có 1 phần 40 tỷ! [12] [13]
=> Virus
gây không covid không thể là virus tự nhiên với xác suất này!
- Nhưng đó chưa phải là toàn bộ. Trong 3 năm, Charles
Rixey và nhóm DRASTIC đã tập hợp được hàng trăm báo cáo khoa
học chứng minh hoặc thiên về giả thuyết virus này xuất phát từ phòng thí nghiệm. [14] [15]
- Sự thật là: đã 5 năm, người ta không thể tìm
thấy bất cứ loại virus nào trong tự nhiên có mã gien đủ gần để tiến hóa thành
con virus tại Vũ Hán. Và đó là đương nhiên!
Bằng chứng tình báo tiêu biểu:
- Tháng 01/2020, báo cáo của tình báo Đức (BND)
xác định dịch covid xuất phát từ phòng thí nghiệm Vũ Hán, “với độ
chắc chắn từ 80 đến 95%”. [16]
- Tháng 03/2020, báo cáo từ cựu giám đốc tình
báo Anh (MI6) Lord Vallance kết luận rằng “Không thể nghi ngờ việc covid đã được thiết kế
trong Viện virus học Vũ Hán”. [16] Một chuyên
gia tình báo Anh khác, Đại tá Richard Kemp cũng cho biết nguồn tin tình báo cho
thấy khả năng virus này lọt ra từ phòng thí nghiệm là rất cao. [17]
- Tháng 02/2023, Bộ Năng lượng Mỹ và giám đốc
FBI lần lượt cho biết virus có thể đã lọt ra từ phòng thí nghiệm, [14]
- Tháng 05/2024, tài liệu mật của Bộ ngoại giao
Mỹ cho thấy virus lọt ra từ phòng thí nghiệm. [18] Tháng
12/2024, Tiểu ban đặc biệt về đại dịch COVID-19 của Hạ viện Mỹ đã đi tới kết
luận: covid có khả năng lớn nhất đã xuất phát từ phòng thí nghiệm. [19]
- Tháng 01/2025, một báo cáo cũ của CIA được
giải mật, cho thấy tổ chức này cũng đã đồng ý với thuyết phòng thí nghiệm. [20]
2) Nhiều
chính phủ, tổ chức khoa học lẫn truyền thông… đã tham gia vào một vụ lừa dối
dân chúng trên quy mô toàn cầu suốt 5 năm qua về vấn đề này:
Một sự lừa dối trên quy mô toàn cầuđã diễn ra, và
đó là bằng chứng rõ ràng nhất rằng đây là một con virus nhân tạo:
- TQ là nước đầu tiên phủ nhận chuyện phòng lab
Vũ Hán, và bảo rằng dịch bệnh bắt nguồn từ chợ hải sản. Nhưng ngay sau đó,
người ta phát hiện rằng bệnh nhân đầu tiên cũng như nhiều bệnh nhân khác không
có liên quan gì đến chợ này! [21]
Ts. Li-Meng Yan, đã bỏ chạy từ Hong Kong sang Mỹ, trú ẩn, và tuyên bố rằng
TQ đã che giấu nguồn gốc phòng thí nghiệm của virus này. [22]
- Hai báo cáo tình báo từ Đức và Anh
được đề cập ở trên có từ đầu năm 2020, đã bị chính phủ các nước này giấu nhẹm suốt 5 năm, và chỉ được
lộ ra vào tháng 3/2025! [16]
- Ở Mỹ, để tránh liên đới trách nhiệm, Anthony
Fauci (và NIH) đã cấu kết với nhóm Peter Daszak, nhanh chóng viết một báo cáo khoa học láo“Proximal Origin” [23]
và một tuyên bố láo trên Lancet về nguồn gốc covid. [24]
CIA thậm chí chi tiền (hối lộ) để thay đổi báo cáo tình báo của nhóm chuyên gia
về nguồn gốc covid! [25]
Cuối cùng, CP Mỹ giật dây truyền thông để tuyên truyền dối trá và lừa dối công
chúng! [26]
[27]
[28]
[29]
- Tổ chức y tế thế giới (WHO) cũng dối
trá “khẳng định virus SARS-CoV-2 có nguồn
gốc tự nhiên” [30]
để bảo vệ TQ: “Covid-19: "Minh oan" cho phòng thí nghiệm Vũ Hán, WHO
xoáy giả thuyết nào?” [31]
- Đương nhiên là báo tiếng Việt cũng dịch lại một
mớ những bài báo dối trá này: “Chuyên gia bác bỏ thuyết âm mưu virus corona
là sản phẩm của phòng thí nghiệm Vũ Hán”, [32]
“Các chuyên gia Mỹ bác bỏ thuyết âm mưu về nguồn gốc COVID-19”, [33]
“Các nhà khoa học bác giả thuyết virus gây ra COVID-19 rò rỉ từ phòng thí
nghiệm”, [34]
“Thuyết âm mưu "bủa vây" cuộc điều tra Covid-19 của WHO ở Trung
Quốc”… [35]
- Tất cả những điều trên là dối trá! New York
Times đăng bài viết của Gs. Zeynep Tufecki rằng “Chúng
ta đã bị lừa dối nghiêm trọngvề sự kiện đã
thay đổi cuộc đời của chúng ta”. [36]
Còn The Heritage Foundation thì gọi nguồn gốc covid là “Lời nói láo thế kỷ”! [37]
- SARS-CoV-2 là một
con virus nhân tạo, xuất phát từ phòng thí nghiệm(bất kể mục đích tạo
ra nó là vũ khí sinh học hay vaccine và nó lọt ra là cố ý hay sai sót…)
- Đã có một sự che đậy
trên toàn cầu về vấn đề này, không chỉ từ TQ, mà còn Mỹ, châu Âu, WHO…
Ta có 3 nhóm bằng chứng chính cho nguồn gốc
phòng thí nghiệm:
- Một: bằng chứng khoa
học, việc phân tích gien cho thấy xác suất SARS-CoV-2 là virus nhân
tạo cao gấp hàng chục tỷ lần so với tiến hóa tự nhiên.
- Hai: bằng chứng tình
báo từ nhiều quốc gia khác nhau.
- Ba: bằng chứng về một sự dối trá và che đậy cố ýđã được thực hiện. Nếu nó không phải là nhân tạo, và có dính líu
trách nhiệm to lớn bởi nhiều bên liên quan, thì đã không có một sự dối trá kinh
hoàng trên quy mô toàn cầu nhằm che đậy nó!
Dịch covid đã gây ra nhiều năm kinh hoàng và
gãy đổ, ảnh hưởng đến tất cả mọi người trên toàn thế giới, mà hậu quả về kinh tế
và y tế của nó vẫn chưa kết thúc. Nhưng người dân thế
giới đã bị lừa, suốt 5 năm, trên quy mô toàn cầu, về nguồn gốc thực sự của
thứ đã gây điêu đứng cuộc đời họ!
- Người dân thế giới đã bị lừa bởi những chính
trị gia dối trá, những chuyên gia y tế dối trá, những kẻ làm truyền thông dối
trá, và những tên dốt nát (useful idiots) nghe theo lời của những kẻ dối trá
kia! Còn những người nói ra sự thật, thì bị gọi là bọn tuyên truyền thuyết âm mưu!
Đó chính là sự thật về nguồn gốc nhân tạo của covid.
- Hơn 81.000bác sĩ, nhà khoa học, nhà
nghiên cứu và công dân kêu gọi thu hồi vaccine COVID-19.
- Tiêm
chủng đại trà COVID-19 có khả năng dẫn đến gia tăng tử vong, lên đến hàng triệu người chết!
- Tổng số ca tử
vong do vaccine COVID-19 được báo cáo vượt xa giới hạn thu hồi của các đợt rút
vaccine trong quá khứ, lên đến 3753 lần!
- Vaccine covid
gây ra hiệu
quả âm, tức
là làm gia tăng nguy cơ nhiễm covid cho người tiêm!
- Tồn dư DNA tạp
trong vaccine COVID-19 vượt xa giới hạn cho phép, gây nguy cơ tích hợp gien và ung thư!
Ngày 28/01/2025, một báo cáo khoa học
quan trọng từ Mỹ được xuất bản (đã peer-reviewed), phơi bày mặt tối của vaccine covid, tựa đề “Review: Calls for Market Removal of COVID-19 Vaccines Intensify as Risks Far Outweigh
Theoretical Benefits”. [1]
Trong bài này, người viết sẽ dịch nguyên văn những trích đoạn đáng chú ý từ báo
cáo khoa học (chữ màu xanh), kèm theo phần tóm tắt những đoạn đã lược bỏ
vì quá dài (chữ màu đen in nghiêng, trong ngoặc):
Báo
cáo tổng hợp: Các lời kêu gọi loại bỏ Vắc-xin Covid-19 ngày càng tăng, khi rủi
ro vượt xa lợi ích lý thuyết
Tóm
tắt:
“Các
chiến dịch tiêm chủng COVID-19 trên toàn cầu đã không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ
bản về an toàn và hiệu quả, dẫn đến lượng bằng chứng về tác hại nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Hơn
81.000 bác sĩ, nhà
khoa học, nhà nghiên cứu và công dân, 240 quan chức chính phủ được bầu, 17 tổ
chức y tế công cộng và chuyên nghiệp, 2 đảng Cộng hòa cấp tiểu bang, 17 ủy ban cấp
hạt đảng Cộng hòa và 6 nghiên cứu khoa học từ khắp nơi trên thế giới đã kêu gọi rút vaccine COVID-19
khỏi thị trường.
Tính đến ngày 6 tháng 9 năm 2024, CDC đã ghi nhận 19.028 ca tử vong tại Hoa Kỳ được báo cáo cho Hệ
thống Báo cáo Tai biến Vaccine (VAERS) bởi các chuyên gia y tế hoặc công ty
dược phẩm tin rằng sản phẩm này có liên quan đến tử vong. Tổng số ca tử vong do
vaccine COVID-19 được báo cáo cho VAERS (37.544 ở tất cả các quốc gia tham gia) đã vượt xa giới hạn thu hồi của
các đợt thu hồi vaccine trong quá khứ lên đến 375.340%. Tiêu chí cho việc thu hồi Loại I của FDA, áp dụng cho các sản phẩm có khả năng gây hậu quả
sức khỏe nghiêm trọng hoặc tử vong ở mức vừa phải, đã bị vượt xa. Tỷ lệ tử vong vượt mức, hiệu quả âm, tồn dư DNA tạp phổ biến và sự thiếu bằng chứng
về giảm lây lan, nhập viện hoặc tử vong đã làm suy yếu lý do để vẫn tiếp tục sử dụng. Những vấn đề đòi hỏi sự quản lý này nhấn mạnh những thiếu sót đáng kể
trong giám sát dữ liệu về tính an toàn và giảm thiểu rủi ro. Việc loại bỏ ngay
lập tức vaccine COVID-19 khỏi thị trường là cần thiết để ngăn chặn tiếp tục tổn thất
sinh mạng và đảm
bảo các bước tiếp theo được thực hiện để xác định trách nhiệm về tác hại đã gây
ra.”
Giới
thiệu
CDC báo
cáo 1.212.008 trường hợp tử vong xảy ra từ ngày 1 tháng 1 năm 2020 đến ngày 23
tháng 11 năm 2024, với xét nghiệm dương tính với COVID-19 tại thời điểm trước
khi tử vong [5]. Trong số đó, 94% ở độ tuổi trên 50. Nếu việc điều chỉnh sai lệch được thực
hiện bởi các bác sĩ lâm sàng, chúng tôi ước tính khoảng 10% tổng số
tử vong (121.200
ca) có thể do viêm
phổi COVID-19 là nguyên nhân chính. Procter và cộng sự đã công bố rằng 85% số
ca tử vong này có thể tránh được bằng các phác đồ đa thuốc sớm bắt đầu từ ngày
đầu tiên tại nhà [6]…
Hình 1 cho thấy, tính đến ngày 6
tháng 9 năm 2024, CDC đã ghi nhận 19.028 ca tử vong do vaccine COVID-19 tại Hoa
Kỳ được báo cáo trong Hệ thống VAERS bởi các chuyên gia y tế hoặc công ty dược
phẩm tin rằng sản phẩm có liên quan đến tử vong . Khoảng 1.175 ca tử vong xảy
ra vào cùng ngày tiêm chủng và 1.250 ca vào ngày hôm sau. Các ca tử vong được
báo cáo trong VAERS được ước tính bị báo cáo thiếu với hệ số nhân ở mức thận trọng
là 31, dựa trên so sánh giữa tỷ lệ sự kiện bất lợi nghiêm trọng (SAE) dự kiến
từ thử nghiệm lâm sàng và các báo cáo quan sát được trong VAERS … Điều này có
nghĩa là số ca tử vong do vaccine COVID-19 tại Hoa Kỳ có thể lên tới 589.868 ca (19.028 x
31). Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, số
người Mỹ chết do tiêm vaccine COVID-19 có thể nhiều hơn do nhiễm SARS-CoV-2.
Có hơn 3.400 nghiên cứu khoa học được bình duyệt trong y văn về
các tổn thương do vaccine COVID-19 gây tử vong và không tử vong, bao gồm các tổn
thương được cơ quan quản lý trên toàn thế giới công nhận như viêm cơ tim, tổn
thương thần kinh, huyết khối và hội chứng miễn dịch…
Hình 1. Báo cáo Tai biến sau tiêm
Vaccine COVID-19 tại Hoa Kỳ qua VAERS. Được điều chỉnh từ OpenVAERS.
Tỷ lệ
tử vong vượt mức
Thay vì cứu sống, tiêm chủng đại
trà COVID-19 có khả năng dẫn đến tử vong gia tăng (Bảng 1) [9-20]. Nghiên cứu
khám nghiệm tử thi lớn nhất được công bố đến nay chỉ ra rằng 73,9% ca tử vong
sau tiêm chủng là do vaccine COVID-19 trực tiếp gây ra hoặc đóng góp đáng kể,
cho thấy khả năng cao về mối liên hệ nhân quả giữa vaccine COVID-19 và tử vong
. Đến tháng 9 năm 2023, Rancourt và cộng sự ước
tính 17 triệu ca tử vong liên quan đến
vaccine COVID-19 trên toàn thế giới . Mostert và cộng sự báo cáo 3,1 triệu ca tử vong
vượt mức có thể do vaccine COVID-19 và các biện pháp phong tỏa tại 47 quốc gia
phương Tây từ năm 2020 đến 2022 …
Tại Hoa Kỳ, Skidmore ước tính
278.000 người Mỹ có thể đã chết do vaccine COVID-19 vào tháng 12 năm 2021 ,
trong khi Pantazatos và Seligmann dự đoán từ 146.000 đến 187.000 ca tử vong
liên quan đến vaccine vào tháng 8 năm 2021 . Hulscher và cộng sự ước tính
49.240 ca tử vong vượt mức do ngừng tim tại Hoa Kỳ từ năm 2021 đến 2023, có khả
năng liên quan đến vaccine COVID-19 …
Rodrigues và Andrade phát hiện
vaccine COVID-19 làm tăng gần gấp đôi nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân sau
một năm nhiễm COVID [20].
(Tóm tắt phần không được dịch: Báo cáo tiếp tục điểm qua
các nghiên cứu khoa học khác về tử vong vượt mức và gia tăng nguy cơ tử vong ở người
tiêm vaccine covid, từ các nhóm nghiên cứu: Aarstad và Kvitastein, Alessandria
và cộng sự, Lataster, Allen, Kuhbandner và Reitzner)
Bảng 1. Tử vong vượt mức do vaccine COVID-19.
Chỉ định Thu hồi Loại I FDA
Ngưỡng thu hồi Loại I của FDA—được
định nghĩa là tình huống mà việc sử dụng hoặc tiếp xúc với sản phẩm vi phạm có
khả năng hợp lý gây hậu quả sức khỏe nghiêm trọng hoặc tử vong —đã bị vượt xa.
Điều này liên quan đến việc rút hoàn toàn sản phẩm khỏi thị trường…
Tính đến ngày 26 tháng 4 năm 2024,
theo VAERS, tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo (37.544 ở tất
cả các quốc gia sử dụng VAERS) đã vượt xa giới hạn thu hồi của các đợt rút
vaccine trong quá khứ lên đến 375.340% (Hình 2) [25, 26]. Năm 1955, vaccine bại
liệt Cutter đã bị thu hồi ngay lập tức sau
10 báo cáo tử vong . Vaccine cúm lợn năm
1976 bị thu hồi sau 53 ca tử vong được báo cáo . Năm 1999, vaccine Rotashield
bị đình chỉ sau 15 trường hợp lồng ruột . Sự tương phản đáng kể giữa các báo
cáo tử vong do vaccine COVID-19 và các đợt thu hồi vaccine trong lịch sử cho
thấy những thiếu sót đáng kể trong giám sát an toàn dữ liệu…
Tính đến ngày 26 tháng 4 năm 2024,
theo VAERS, tổng số ca tử vong do vaccine COVID-19 được báo cáo (37.544ở tất cả các quốc gia sử dụng VAERS) đã vượt xa giới hạn
thu hồi của các đợt rút vaccine trong quá khứ lên đến 375.340% (Hình 2).
Hình 2. Ca
tử vong được báo cáo cho các đợt thu hồi thuốc/vaccine lớn so với tổng số ca tử
vong do vaccine COVID-19 được báo cáo cho VAERS. *Hình được in lại từ Rhodes và
Parry, những người đã được VAERS Analysis cho phép sử dụng hình của họ .
Hiệu quả ÂM
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
rằng những người được tiêm vaccine COVID-19
có thể đối mặt với nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn so với người chưa tiêm. Eythorsson và cộng sự phát hiện những người được tiêm
hai liều trở lên có nguy cơ tái nhiễm cao hơn 42% so với những người tiêm một
liều hoặc ít hơn . Chemaitelly và cộng sự ước tính hiệu quả của vaccine
Pfizer-BioNTech (BNT162b2) và Moderna (mRNA-1273) chống lại các biến thể phụ
Omicron giảm đáng kể, đạt mức hiệu quả âm (-17,8% và -12,1% cho Pfizer; -10,2%
và -20,4% cho Moderna) sau bảy tháng . Shrestha và cộng sự phát hiện nguy cơ
nhiễm COVID-19 tăng phụ thuộc vào liều lượng, với những người tiêm hơn ba liều
có nguy cơ cao hơn 253% so với người chưa tiêm . Tương tự, Feldstein và cộng sự
tiết lộ trẻ em từ 6 tháng đến 4 tuổi được tiêm chủng không có tiền sử nhiễm
bệnh có khả năng nhiễm bệnh cao hơn 159% và phát triển COVID-19 có triệu chứng
cao hơn 257% so với trẻ chưa tiêm…
Tồn dư DNA tạp
Các nghiên cứu điều tra tồn dư DNA tạp và khả
năng tích hợp gen từ vaccine COVID-19 đã tiết lộ những phát hiện đáng lo ngại
(Bảng 2) [33-44]. McKernan và cộng sự từ Medicinal Genomics (Hoa Kỳ) báo cáo
mức DNA vượt xa ngưỡng an toàn trong vaccine Pfizer và Moderna, với đo lường
lên tới 3.390 ng mỗi liều bằng các phương pháp electrophoresis và fluorometer.
Phát hiện của họ có bằng chứng về tích hợp
gen và các trình tự SV40 trong tế bào ung thư,
dẫn đến các lo ngại được báo cáo cho FDA và trình bày tại Hội đồng Y tế Thế
giới (WCH) [33-35]…
Buckhaults (Hoa Kỳ) chứng minh DNA
tích hợp vào tế bào gốc biểu mô người…
Kämmerer và cộng sự (Đức)… chứng
minh DNA từ vaccine có thể chuyển giao vào tế bào HEK293, làm dấy lên lo ngại
về tích hợp gen và sự kiện bất lợi tiềm ẩn .
(Tóm tắt phần không được dịch: Báo cáo tiếp tục điểm qua
các nghiên cứu khoa học khác xác định tồn dư DNA tạp trong vaccine covid, từ các
nhóm nghiên cứu: König và Kirchner (Đức), Speicher, Rose và McKernan và cộng sự
(Canada), Raoult và cộng sự (Pháp), Wang và cộng sự (Hoa Kỳ))
Bảng 2. Xác
minh Tồn dư DNA tạp trong Vaccine mRNA trên Thế giới. Ô đỏ chỉ mức ô nhiễm DNA
vượt giới hạn quy định 10 ng mỗi liều lâm sàng. Tạo bảng và trích xuất dữ liệu
bởi Tiến sĩ Kenji Fujikawa, Viện Thống kê Y tế, Thông tin và Truyền thông, Nhật
Bản.
Những phát hiện này chỉ ra rằng tồn
dư DNA tạp, được báo cáo trên nhiều nhà sản xuất, nền tảng vaccine và khu vực
địa lý, vượt xa ngưỡng khuyến nghị của các cơ quan quản lý như Cơ quan Dược
phẩm Châu Âu (EMA) và FDA, thường đặt dưới 10 ng mỗi liều lâm sàng . Hơn nữa,
mức tồn dư DNA tạp dưới ngưỡng quy định vẫn có thể gây rủi ro sức khỏe đáng kể.
Sự hiện diện của các trình tự như SV40 làm dấy lên rủi ro tiềm ẩn về tích hợp
gen và gây ung thư [46, 47].
Lời kêu gọi Rút vaccine
COVID-19 khỏi Thị trường
Hơn 81.000bác sĩ, nhà khoa học,
nhà nghiên cứu và công dân quan tâm, 240 quan chức chính phủ được bầu, 17 tổ
chức y tế công cộng và chuyên nghiệp (Hình 3), 2 đảng Cộng hòa cấp tiểu bang,
17 ủy ban quận của đảng Cộng hòa và 6 nghiên cứu khoa học từ khắp thế giới đã kêu gọi rút vaccine COVID-19khỏi thị trường (Bảng
3). Tổ chức Bác sĩ vì Đạo đức COVID (Doctors for COVID Ethics) kêu gọi thu hồi
toàn cầu vaccine COVID-19 vào ngày 10 tháng 3 năm 2021 . Tháng 5 năm 2021,
Bruno và cộng sự (50 tác giả) kêu gọi tạm dừng chương trình tiêm chủng đại trà
nếu các chương trình tiêm chủng trên toàn cầu không thiết lập các hội đồng giám
sát an toàn dữ liệu độc lập (DSMB), ủy ban xét xử sự kiện (EAC) và thực hiện
giảm thiểu rủi ro…
Tháng 5 năm 2022, Hội nghị Thượng
đỉnh COVID Toàn cầu, bao gồm hơn 17.000 bác
sĩ và nhà khoa học, tuyên bố "các mũi
tiêm liệu pháp gen thử nghiệm COVID-19 phải chấm dứt" … Hiệp ước HOPE, một
nhóm quốc tế gồm các chuyên gia y tế, nhà khoa học, học giả và công dân quan
tâm, đã kêu gọi đình chỉ ngay lập tức vaccine mRNA COVID-19 và đánh giá toàn
diện về tính an toàn và hiệu quả vào ngày 3 tháng 7 năm 2024 . Hiệp ước này đã
nhận được 64.168 chữ ký từ các chuyên gia y tế, nhà nghiên cứu và công dân nổi
bật, những người cho rằng bằng chứng mới xuất hiện cho thấy các sản phẩm
vaccine mới này có thể góp phần làm tăng tỷ lệ thương tật và tử vong vượt mức.
(Tóm tắt phần không được dịch: Báo cáo liệt kê hàng loạt yêu
cầu/ kêu gọi chấm dứt vaccine covid khác, từ: Hội đồng Y tế Thế giới (WCH), Hiệp
hội Chuyên gia Y tế và Nhà nghiên cứu Độc lập (APSIIN), Quỹ McCullough, Hiệp
hội Bác sĩ và Bác sĩ Phẫu thuật Hoa Kỳ (AAPS), Chất vấn Công dân Quốc gia Canada,
Tổ chức Người Mỹ vì Tự do Y tế (Americans for Health Freedom), America’s
Frontline Doctors, Frontline COVID-19 Critical Care Alliance, Health Advisory
and Recovery Team, Dự án Y tế Toàn cầu và Hội nghị Thượng đỉnh COVID Toàn cầu, Giám
đốc Sở Y tế Florida, New Zealand Doctors Speaking Out with Science (NZDSOS), VERITY
France, Nhóm NORTH, Tổ chức Bảo vệ Sức khỏe Trẻ em (CHD), các Nghị viện Châu Âu
và Úc, các báo cáo khoa học từ 02 báo cáo khoa học từ Mead và cộng sự Rogers và
cộng sự, Oldfield và cộng sự, Kämmerer và cộng sự…)
Hình 3. Các tổ chức kêu gọi thu hồi vắc-xin Covid-19.
Bảng
3. Những lời kêu gọi thu hồi Vắc-xin Covid-19.
Kết luận
Chúng tôi dự đoán rằng các lời kêu
gọi về việc tạm dừng ngay lập tức các loại vắc-xin COVID-19 sẽ tiếp tục gia
tăng cho đến khi đạt đủ sức nặng, và cuối cùng các sản phẩm này sẽ bị loại bỏ
khỏi thị trường. Tử vong vượt mức, hiệu quả âm, và tồn dư DNA tạptràn lan liên quan đến vắc-xin COVID-19 đã được chứng
minh đầy đủ. Các tiêu chí của FDA về việc thu hồi cấp độ I đã bị vượt quá xa.
Không có thử nghiệm quy mô lớn, thuyết phục, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng
giả dược nào chứng minh được các kết quả chính về việc giảm lây lan, nhập viện,
hoặc tử vong. Do đó, vắc-xin COVID-19 chưa hề được chứng minh là có hiệu quả
trong việc giảm các kết quả lâm sàng quan trọng. Việc ủng hộ tiêm chủng
COVID-19 đi ngược lại sự thực hành y tế tốt và vi phạm Lời thề Hippocrates:
không gây hại là trên hết. Việc loại bỏ ngay lập tức vắc-xin COVID-19 khỏi thị
trường là điều cần thiết để ngăn chặn thêm
tổn thất về sinh mạng và đảm bảo các bước
tiếp theo về trách nhiệm giải trình được thực hiện.
Nhận
định:
-
Đây là một báo cáo khoa học tổng hợp rất tốt về sự thật của vaccine
covid, nên được đọc kỹ và lan truyền rộng rãi.
-
Mặc dù có quá nhiều thứ về vaccine covid để có thể viết hết, nhưng báo cáo
khoa học trên đã làm rất tốt trong việc tổng hợp các sự thật quan trọng về
vaccine covid. Người viết đồng ý với tất
cả những ý trên, và hầu hết tất cả các ý đều đã được viết kỹ trong các bài viết
khác.
Các bài tham khảo liên quan:
-
Bài
53: hàng ngàn bác sĩ, chuyên gia, nhà khoa học nói lên sự thật về covid.
-
Bài
48: hàng ngàn nghiên cứu khoa học về tác hại của vaccine covid, bao gồm
tồn dư DNA tạp.
-
Bài
42: hiệu quả âm của vaccine covid và sự gia tăng tử vong vượt mức.
-
Bài
46: về sự dối trá của các cơ quan y tế về covid, và cũng là nguyên nhân
tại sao các sự thật này không được biết đến rộng rãi!
Hàng trăm
bác sĩ, chuyên gia… từ 10+ nước Châu Âu tuyên bố các sự thật về vaccine
covid (mRNA) và kêu gọi dừng lại ngay lập tức:
1) Sự thật 1: Vaccine covid không có tác dụng chống lây truyền => đây là
một lời nói dối mà các cơ quan y tế trên toàn thế giới đã sử dụng để o ép toàn
xã hội tiêm vaccine (“tiêm để bảo vệ người khác”)!(đã chứng minh tại bài
42)
2) Sự thật 2: Có đến hàng ngàn nghiên cứu khoa học về tác hại của
vaccine covid. (hơn 3.500 nghiên
cứu, bài
48)
3) Sự thật 3: Vaccine mRNA (Pfizer,
Moderna) tồn dư DNA tạp có nguồn gốc vi khuẩn, gây nguy cơ biến đổi gien, ung thư, biến đổi di truyền cho con
cái… (xem loạt bài Tồn
dư DNA tạp)
4) Sự thật 4: Các cơ quan quản lý y
tế đã và đang cố gắng che đậy số liệu tệ hạivề vaccine covid.
(xem bài
46)
1) Hàng trăm bác sĩ, chuyên
gia… từ 10+ nước Châu Âu tuyên bố sự thật về vaccine covid (mRNA) và kêu gọi
dừng lại ngay lập tức:
Cuối tháng 11, nhóm NORTH đã thu thập được hàng
trăm chữ ký từ các chuyên gia, bác sĩ… từ hơn 10 nước châu Âu (hiện tại là 19), tuyên bố một loạt sự
thật quan trọng về vaccine covid. [1][2]
[3]
Dưới đây lần lượt là Thông cáo báo chí và Tóm tắt khoa học từ NORTH:
“Vào thứ Hai ngày 25 tháng 11, một nhóm chính trị gia quốc
tế và các chuyên gia y tế cũng như các ngành khác đã viết thư cho nguyên thủ
quốc gia của 10 nước châu Âu (Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Greenland, Iceland,
Latvia, Litva, Na Uy, Thụy Điển và Anh) kêu gọi
đình chỉ vắc xin mRNA-sửa-đổi (modRNA)
vì các mối lo ngại y tế nghiêm trọng.
Ngày 8/12, Cộng hòa Séc, Ireland và Bồ Đào Nha; 17/12, Hungary, Malta và Tây Ban Nha; 27/12, Bỉ và Croatia; đã tham gia sáng kiến NORTH. Với khoảng 500chữ ký quốc tế, công dân từ các nước châu Âu khác đang chuẩn bị tham gia NORTH trong năm mới.
Công văn từ NORTH nêu rõ:
● Bằng chứng khoa học cho thấy những tác dụng phụ
bao gồm tử vong khi tiêm vaccine phụ thuộc vào từng lô vaccine, do đó có
tính ngẫu nhiên như quay xổ số.
● Vắc xin COVID-19 chưa bao
giờ được thử nghiệm về khả năng ngăn chặn sự lây truyền. Vì vậy, các
cơ quan quản lý y tế, cũng như các cơ quan chính phủ, đã đưa ra thông tin
sai lệch và thậm chí đã đánh lừa công chúngkhi o ép họ chấp nhận những sản phẩm này.
● Nhiều phân tích độc lập đã chỉ ra rằng vắc-xin dùng mRNA-sửa-đổi
(modRNA) có chứa nồng độ DNA tồn dưcó thể thay đổi nhưng đều ở mức cao đáng báo động.
Điều này làm dấy lên mối lo ngại cực độ về những rủi ro đối với sức
khoẻ con người và khả năng gây tổn hại di
truyền(gien) mà không được
tính toán một cách khoa học trong quá trình cấp phép.
Với sự ủng hộ quốc tế chưa từng có, chúng tôi yêu cầu:
● Ngừng ngay lập tức việc sử dụng vắc xin mRNA-sửa-đổi
(modRNA).
● Cần có một cuộc điều tra độc lập và minh bạch về việc phê
duyệt và sử dụng chúng.
● Phải có bằng chứng khoa học cho thấy không có nguy cơ gây
tổn hại cho DNA của con người (thì mới có thể được sử dụng lại).
Hãy chia sẻ. Truyền thông dòng chính đã từ chối chia sẻ thông cáo báo chí trước
đây của chúng tôi bằng chính sách biên tập.
“1. Vắc xin mRNA không ngăn chặn sự lây truyền của
COVID-19
Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMA) đã tuyên bố trong một phản
hồi chính thức (EMA/451828/2023) gửi tới 8 Thành viên của Nghị viện Châu Âu
rằng “Vắc xin COVID-19 chưa được cấp phép để
ngăn ngừa lây truyền từ người này sang người khác”. Ngoài ra, “Báo
cáo đánh giá này của EMA về việc cấp phép sử dụng vắc xin lưu ý rằng thiếu dữ liệu về mức độ lây truyền.”1
Trong thời kỳ cao điểm của đại dịch, người dân đã bị bắt
buộc phải chấp nhận các sản phẩm mRNA của Pfizer và Moderna để bảo vệ những
người khác khỏi COVID-19 (2). Đây là một lời nói
dốivà mặc dù có bằng chứng về các
tác dụng phụ nghiêm trọng trong dữ liệu thử nghiệm lâm sàng 3, hồ sơ về
tính an toàn và hiệu quả thảm hại, các tín hiệu an toàn cảnh giác dược cực kỳ
tệ hại được báo cáo trên toàn thế giới và hàng ngàn
bài báo khoa học đã qua bình duyệtghi
lại tác hại liên quan đến vắc xin mRNA, những sản phẩm này vẫn tiếp tục
được khuyến nghị và sử dụng.
…
Những rủi ro được nêu trong các phần bên dưới ủng hộ lời kêu
gọi thu hồi ngay lập tức các sản phẩm dựa trên mRNA. Ngoài ra, nên tạm dừng
việc sử dụng và phát triển tất cả các sản phẩm dựa trên công nghệ mRNA cho đến
khi kết quả điều tra pháp y hoàn toàn độc lập và minh bạch được công bố và các
sản phẩm này đã được chứng minh là không có rủi ro, bao gồm cả tổn hại đối với
DNA của con người (độc tính di truyền).
2. Vắc xin COVID-19 mRNA-sửa-đổi dẫn đến lượng báo cáo tác dụng phụ và tử vong ở mức độ chưa từng có.
Dữ liệu thực tế được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu
thập và phân phối cho EMA cho thấy sự hiện diện của các tín hiệu (mất) an
toàn có ý nghĩa thống kê, bao gồm mức độ biến động cao về tác dụng phụ được
báo cáo đối với các lô vắc xin COVID-19 mRNA biến đổi khác nhau 4,5,6. Những
tín hiệu này nhất quán giữa các quốc gia và đặc biệt rõ ràng trong vài tháng
đầu tiên triển khai vắc xin, mặc dù EMA đã ngăn
chặn thông tin này bằng cách giữ bí mật các báo cáo an toàn định kỳ
theo luật định (PSUR) cho đến năm 2023 7.
…
3. Vắc xin COVID-19 mRNA-sửa-đổi chứa tạp chất là DNA nhân
tạo có nguồn gốc vi khuẩn ở mức độ cao và không đồng đều.
Vào ngày 20 tháng 9 năm 2024, Nghị sĩ Quốc hội Úc (MP)
Russell Broadbent, đã gửi văn bản cho Thủ tướng Úc Anthony Albanese mô tả bằng
chứng thuyết phục về lượng plasmid DNA quá mức còn sót lại trong các lọ vắc xin
mRNA của Moderna và Pfizer, được phân phối tại Úc.
Văn bản được đồng ký tên bởi một nhóm gồm 26 bác sĩ, nhà
khoa học, và các chuyên gia có trình độ khác từ Úc 14 đã chỉ ra nguy cơ DNA
tạp còn sót lại được bọc trong các hạt nano lipid (LNP), tạo ra nguy cơ nghiêm trọng không thể định lượng được về tổn hại DNA cho con người, mất ổn định di truyền, biến
đổi di truyền, ung thư và rối loạn hệ thống miễn dịch…
Văn bản thứ hai đồng ký tên bởi 52 bác sĩ, nhà khoa học
quốc tế và các chuyên gia có trình độ khác 14 đã được ông Broadbent gửi tới
Thủ tướng Albanese vào ngày 25 tháng 9 năm 2024 nêu bật một loạt nỗ lực của các
nhà khoa học nổi tiếng nhằm cảnh báo TGA về những rủi ro đã bị bỏ qua kể từ đầu
năm 2021…
…
Rủi ro không xác định được liên quan đến vắc xin mRNA-sửa-đổi.
mRNA đã biến đổi mã hóa cho một loại protein gai có hoạt
tính sinh học, các mức độ DNA plasmid còn sót lại khác nhau và sự hiện diện của
đoạn gien SV40 promoter-enhancer, chứa đựng những rủi ro nghiêm trọng cho
sức khỏe con người, bao gồm bệnh tim mạch, ung thư,
miễn dịch, tự miễn dịch, rối loạn về da và thần kinh, đặc biệt là khi
đi cùng một công nghệ truyền tải vào tế bào là các hạt LNP.
Như đã được trình bày chi tiết trong bản tóm tắt khoa học
được cung cấp bởi nhóm Nghị sĩ Russel Broadbent (Phụ lục 2) và các nghiên cứu
đã qua bình duyệt kèm theo trong đó, plasmid DNA dư thừa trong các sản phẩm của
Pfizer và Moderna, trầm trọng hơn khi tiêm nhắc lại, có thể dẫn đến:
a) Chèn gien của DNA tổng
hợp vào DNA nhiễm sắc thể tự nhiên của người;
b) Sự tích hợp gen gây bệnh ác tính, ung thư;
c) Sự bất hoạt p53 dẫn đến tăng sinh khối u;
d) Có DNA tổng hợp trong tế bào chất gây bệnh ung thư/
ác tính;
e) Truyền vào các tế bào sản xuất trứng và tinh trùng
dẫn đến:
i. Con cái bị biến đổi gen;
ii. Can thiệp vào quá trình phát triển sớm của tử cung;
iii. Gây sẩy thai và dị tật.
…
Tóm tắt những mối lo ngại liên quan đến vắc xin mRNA sửa
đổi.
● Vắc xin mRNA biến đổi COVID-19 gây ra những rủi ro sức
khỏe cố hữu chưa được nghiên cứu đầy đủ trước khi được phê duyệt có điều kiện
và triển khai sau đó, nhưng sau đó đã trở nên rõ ràng hơn.
● Các hạt LNP không nhất thiết phải tồn tại ở chỗ tiêm mà
có thể đi vào máu và do đó đi đến nhiều cơ quan.
● …gây tổn thương mạch máu và đông máu, dẫn đến tăng
nguy cơ đột quỵ, đau tim và các bệnh mạch máu
cấp tính khác. Một số protein bất thường có thể dẫn đến phản ứng miễn dịch
chéo chống lại protein bình thường của con người và do đó gây ra bệnh tự miễn dịch… Sự phá hủy tế bào bởi hệ
thống miễn dịch có thể dẫn đến các tình trạng như viêm
não, viêm cơ tim, tự miễn dịch… cũng đã được ghi chép đầy đủ…
● Mức độ khả tín của các cơ quan quản lý và chính phủ đang
bị công chúng nghi ngờ nghiêm trọng, vì họ đã ép
buộc công dân của họ sử dụng các sản phẩm này– chủ yếu để bảo vệ những người dễ bị tổn thương, mà đó lại là
thông tin sai lệch có chủ ý.
● Việc phát triển các sản phẩm y tế an toàn và hiệu quả phụ
thuộc vào sự giám sát pháp lý minh bạch và đáng tin cậy đối với quy trình sản
xuất. Điều này đã bị bỏ qua trong quá trình ứng phó với COVID-19 và là một thảm
họa về quản lý mà sẽ phải mất nhiều năm, nếu không muốn nói là hàng thập kỷ để
sửa chữa.
Sự thay đổi tích cực bắt đầu bằng việc thừa nhận sai lầm
và quá trình này phải bắt đầu ngay lập tức trước khi có thêm nhiều sinh mạng bị
thiệt hại một cách bất cẩn và không cần thiết.”
Báo cáo khoa học trên đã được nhóm NORTH gửi và thu thập chữ
ký ủng hộ của hàng trăm chuyên gia, nhà khoa
học, bác sĩ, và các chuyên gia khác. Tên tuổi của các chuyên gia và
nhà khoa học này đều được ghi ra rõ ràng, có thể kiểm chứng, trong bản tổng
hợp này, dài 47 trang giấy tính đến hết tháng 12/2024! [3]
Danh sách chuyên gia tham gia ký tên. Bấm vào hình để xem bản gốc. (47+ trang)
2) Nhận định:
Nhóm hàng trăm nhà khoa học này đã tuyên bố rất rõ ràng các
sự thật về vaccine covid, đặc biệt là vaccine mRNA (Pfizer, Moderna):
1) Sự thật 1: Vaccine covid không có tác dụng chống lây truyền => đây là
một lời nói dối mà các cơ quan y tế trên toàn thế giới đã sử dụng để o ép toàn
xã hội tiêm vaccine (“tiêm để bảo vệ người khác”)!(bài
42: số liệu thực tế chứng minh vaccine covid không những không
ngăn chặn mà còn tăng nguy cơ nhiễm bệnh!)
2) Sự thật 2: Có đến hàng ngàn nghiên cứu khoa học về tác hại của
vaccine covid. (bài
48: hơn 3.500 nghiên cứu và vẫn tiếp tục
tăng)
3) Sự thật 3: Vaccine mRNA (Pfizer,
Moderna) tồn dư DNA tạp có nguồn gốc vi khuẩn, gây nguy cơ biến đổi gien, ung thư, biến đổi di truyền cho con
cái… (xem loạt bài Tồn
dư DNA tạp)
4) Sự thật 4: Các cơ quan quản lý y
tế đã và đang cố gắng che đậy số liệu tệ hạivề vaccine covid.
(xem bài
46)
Đây là những sự thật về vaccine covid, và những sự thật này sẽ
dẫn đến:
-
Số lượng bệnh tật và tử vong tiếp tục gia tăngtrong thời gian tới. Đột quỵ và đột tử không rõ nguyên nhân đã được
nhìn thấy một cách rất rõ ràng là gia tăng đột biến sau vaccine covid. Các loại
bệnh tự miễn, xương khớp, bệnh thần kinh (sa sút trí nhớ…), rối loạn chuyển hóa…
cũng đã gia tăng dù không rõ ràng bằng.
- Thêm vào đó, vaccine covid loại mRNA là nguy
hiểm nhất. Vaccine này tạo ra đáp ứng miễn dịch sai, gây dung nạp miễn dịch
(do IgG4). Thêm vào đó, quy trình sản xuất không tốt (để tiết kiệm chi phí) đã được
áp dụng khi đi vào sản xuất quy mô lớn, đã dẫn đến việc vaccine mRNA chứa một lượng
lớn plasmid DNA tạp tồn dư. Các DNA tạp này gây biến đổi gien và ung thư. Trong
thời gian tới, ung thư có thể sẽ gia tăng
đáng kể, và nguyên nhân chính là do vaccine covid mRNA!
Mặc dù các cơ quan quản lý và báo chí chính thống đang toa rập
bưng bít thông tin, nhưng với những bằng chứng khoa học rõ ràng, ngày càng nhiều
người đang tham gia vào những phong trào đa quốc gia, nhằm phơi bày sự thật về
vaccine covid (như sáng kiến NORTH ở trên). Ta chờ xem năm 2025 sẽ có những
chuyện gì xảy ra.
1) Châu Âu rút giấy phép vaccine
Astrazeneca, Astrazeneca thu hồi vaccine trên toàn cầu
sau khi bị kiện và phải thừa nhận vaccine có thể gây đông máu
& có thể tử vong.
- Trước đó, năm
2021, hàng loạt quốc gia dừng/ ngưng sử dụng vaccine này (vô thời hạn), nhưng đẩy
sang VN tiêu thụ!
2) Sự thật từ
tài liệu của chính hãng Astrazeneca:
- Vaccine này là một ‘Vaccine biến đổi
gien’, có thành phần chính là ‘Sinh vật biến đổi gien’ (GMO)!
- Vaccine này được nuôi cấy trên các tế bào thận
từ bào thai người!
1) Châu Âu rút
giấy phép vaccine Astrazeneca, Astrazeneca thu hồi vaccine trên toàn cầu sau
khi bị kiện và phải thừa nhận vaccine có thể gây đông máu có thể tử vong.
Cuối tháng
4/2024, báo chí Anh đưa tin về tài liệu vụ kiện đang diễn ra mà trong đó Astrazeneca
lần đầu tiên thừa nhận vaccine covid của mình có thể gây đông máu giảm tiểu cầu,
có thể dẫn đến chết người. [1]
- Một tuần sau đó, hàng loạt tờ báo VN cũng đưa
tin. [2][3]
[4]
Lưu ý rằng đến tháng 5/2023, hãng này vẫn còn chối cãi về việc này. [3]
- Trước đó, tháng 12/2023 người viết cũng đã đăng
tin về vụ kiện này, trong đó số liệu CP Anh cho biết ít nhất 81 người (Anh) có
thể đã chết vì tác dụng phụ này. [5]
Một điều đáng
chú ý khác nhưng không được truyền thông đưa tin, đó là Ủy ban châu Âuâm thầm rút giấy phép của vaccine Astrazeneca theo quyết định
số 2239 ngày 27/03/2024. Quyết định có hiệu lực kể từ ngày 07/05/2024. [6][7]
- Lưu ý rằng việc Astrazeneca lần đầu tiên thừa
nhận tác dụng phụ tại tòa đã xảy ra vào tháng 02/2024, tức là chỉ 1 tháng trước
đó! [1]
[2][3]
- Như vậy, việc rút giấy phép rõ ràng là do tác
dụng phụ này (không thể tin rằng chỉ là trùng hợp)! Và điều này
cũng có nghĩa là nếu Astrazeneca thừa nhận điều này từ sớm, thì đã không có hàng
triệu người tiêm vaccine này trong các năm 2021, 2022, 2023!
Ngay khi quyết
định rút giấy phép có hiệu lực ngày 07/5/2024, Astrazeneca ra thông báo thu hồi
toàn bộ vaccine trên toàn cầu. [8][9]
- Lưu ý rằng Astrazeneca bao biện rằng việc thu
hồi vaccine là do dư thừa, nhưng rõ ràng thời điểm thông báo cho thấy việc thu
hồi là do tác dụng phụ của vaccine này. Rõ ràng là Astrazeneca sợ sẽ có thêm người
chết và kiện tụng về sau!
Trên thực tế,
từ khi có các nghi vấn về tác dụng phụ gây đông máu đầu năm 2021, hàng loạt
quốc gia trên thế giới đã ngưng sử dụng loại vaccine này (và bán lại/ chuyển
đi nơi khác):
- Tháng 3/2021, Nam Phi cho biết vaccine Astrazeneca
chỉ có tác dụng tối thiểu phòng bệnh nhẹ và vừa, do đó đã bán lại cho các quốc
gia châu Phi khác. [10]
- Tháng 3-5/2021, hàng loạt nước châu Âu ngưng
sử dụng loại vaccine này: Áo,[11]
Đan Mạch,[12]
Na Uy,[12]
Iceland,[12]
Bulgaria,[13]
Ireland,[15]
Ý,[15]
Tây Ban Nha,[16]
Đức,[17]
Pháp,[17]
Hà Lan[18]
và Slovenia. [19]
(Có vài nước ngưng hoàn toàn, có một số
nước sau đó dùng lại, nhưng chỉ dùng cho những đối tượng nhất định, ví dụ trên 60
tuổi…)
- Thống kê chính thức tại châu Âu cho thấy từ
tháng 7/2021 là số mũi tiêm vaccine Astrazeneca chỉ tăng rất ít, và từ tháng
10/2021 trở đi gần như là ngừng hẳn ở mức ~67 triệu mũi. [20]
=> Điều này
cho thấy các nước này đã không còn tiêm Astrazeneca trên thực tế nữa!
Trong khi đó, ở
Việt Nam, vaccine này bắt đầu được tiêm sau những ồn ào trên, và vẫn được tiêm
cho người từ 18 tuổi trở lên. [21][22]
[23][24]
Trong đó, VNVC là 1 công ty đã mua rất nhiều vaccine này về VN. [25]
- Một thống kê cho biết Việt Nam đã tiêm khoảng
70 triệu mũiAstrazeneca. [26]
=> Việt Nam
tiêu thụ lượng vaccine Astrazeneca ngang với cả châu Âu!
2) Sự thật từ tài
liệu chính hãng: vaccine Astrazeneca là một ‘vaccine biến đổi gien’ có thành phần chính là Sinh vật
biến đổi gien (GMO), được nuôi cấy trên tế bào từ bào thai người!
Cần phải nói rõ
về một sự thật ít người biết vì truyền thông tránh đề cập, dù tài liệu chính hãng
có ghi rõ: [27]
i) Vaccine này
được nuôi cấy trên tế bào thai nhi, từ một bào
thai bị phá.
ii) Vaccine này
là một ‘vaccine biến đổi gien’ với thành phần chính là một loại
sinh vật biến đổi gien (GMO).
Trong hình trên
chính là tài liệu tiếng Việt chính thức của hãng Astrazeneca. Người viết sẽ làm
rõ thêm cả 2 nội dung trên.
i) Vaccine này
được nuôi cấy trên tế bào thai nhi, từ một bào thai bị phá.
Như trong tài
liệu Astrazeneca có viết rõ, thành phần chính sản phẩm này là “Vector
adenovirus tinh tinh… Được sản xuất trong tế bào thận
phôi người (HEK) 293 đã được biến đổi gen.”
Tế bào HEK-293
là tế bào thận, được lấy từ phôi tức là bào thai non(HEK =
human embryonic kidney) ở người. Phôi thai là một đứa bé gái bị phá thai vào
năm 1973(phá thai hay như thế nào đó nhưng thông tin cụ thể lại không
rõ ràng). Các tế bào này sau đó được lưu giữ và nhân giống cho đến tận ngày
nay và bán cho các hãng dược sử dụng. [28][29]
[30][31]
- Về cơ bản, thông tin trên là sự thật khoa học,
nhưng ít khi được bên ngoài biết rõ, vì nó dễ gây tranh cãi về mặt đạo đức. Nhiều
người Công giáo tuyên bố không tiêm vaccine vì lý do này. [32]
- Lưu ý rằng người ta nói đây không phải những tế
bào ban đầu từ bào thai bị phá. Tuy nhiên, cho dù có được nhân bản bao nhiêu lần,
thì nó vẫn là tế bào thận của người. Không có tranh cãi về chuyện này. Giả
sử nó được nhân giống và bỏ vào thức ăn, thì đó sẽ là chuyện lớn!
Đối với
vaccine Astrazeneca, sau khi virus adeno được nuôi cấy và nhân bản, người ta
sẽ tinh lọc các tế bào này để lọc virus ra. Tuy nhiên, đó là về lý thuyết, còn thực tế
lọc có sạch 100% không thì là chuyện khác.
- Câu chuyện tồn dư DNA trong vaccine
Pfizer đã viết trong bài 48 [33]
chính là một ví dụ về việc thực tế khác lý thuyết như thế nào.
ii) Thành phần
chính của vaccine Astrazeneca là một loại sinh vật biến đổi gien (GMO)
Trong tài liệu
của vaccine Astrazeneca viết rằng “Sản phẩm này có chứa các sinh vật biến
đổi gen (GMO)”, và viết trong mục ‘Thành phần hoạt chất’, tức là
thành phần chính, không phải tá dược. [27]
- Tuy nhiên, người viết muốn nhấn mạnh rằng chữ “có
chứa” có tính đánh lạc hướng, vì thành phần chính (hoạt chất) của vaccine
Astrazeneca CHÍNH LÀ sinh vật biến đổi gien (GMO).
- Câu này muốn viết chính xác, phải viết “Sản
phẩm này có chứa thành phần chính là các sinh vật biến đổi gen
(GMO)”.
Cụ thể, sinh
vật biến đổi gien (GMO) ở đây chính là những con virus adeno được biến đổi
gien (chứ không phải tế bào HEK hay gì khác). Người viết sẽ
chứng minh chuyện này, vì đây cũng là một sự thật khoa học:
- Khi Astrazeneca xin cấp phép ở châu Âu, Úc… có trải
qua một số thủ tục về quản lý sinh vật biến đổi gien. (ở Việt Nam thì không
rõ, nhưng có luật Bảo vệ môi trường và các nghị định về quản lý sinh vật biến đổi gien)
- Châu Âu: Báo cáo thẩm định vaccine Astrazeneca
số EMA/94907/2021
ngày 29/01/2021 của Cơ quan Y tế Châu Âu, trang 49, mục 2.3.4. Ecotoxicity/environmental
risk assessment, xác nhận rõ: “Given the nature of the GMO (a replication-defective adenovirus derived from a chimpanzee adenovirus)”
[34]
=> Sinh vật biến đổi gien này chính là virus adeno được biến đổi gien, thành
phần chính của vaccine.
- Thành phần chính của vaccine Astrazeneca là một
loại virus biến đổi gien, mà virus được xem là một loại sinh vật (organism) [37][38]
[39]
=> như vậy thành phần chính của vaccine Astrazeneca là một loại sinh vật biến
đổi gien (GMO = Genetically Modified Organism).
- Lưu ý rằng có một số tranh cãi virus có phải
sinh vật sống hay không. Nhưng trong các quy định pháp luật về quản lý GMO thường có bao
gồm virus trong đó. Một ví dụ cụ thể là tài
liệu số ENVI
504 EN về Sinh vật biến đổi gien của Nghị viện châu Âu,
trong đó trang 5 cho biết “Một GMO có thể là một vi-sinh-vật” và
trang 8 cho biết “Một vi-sinh-vật… bao gồm virus”. [40]
Bởi vaccine này
chứa sinh vật biến đổi gien, do đó, vaccine Astrazeneca còn được phân loại là “vaccine biến đổi
gien” (genetically modified vaccine).
- Giấy phép DIR 180 của Úc cũng ghi rõ điều này
ngay trang bìa. [41]
3) Kết luận:
- Trong bài này, người viết đã làm rõ và chứng
minh rằng: vaccine Astrazeneca là một loại vaccine gien, với thành phần
chính là một loại sinh vật biến đổi gien, được nuôi cấy
trên tế bào thận (nhân bản) từ một bào thai bị phá.
- Từ 2021 đã có những dấu hiệu về việc vaccine Astrazeneca có
thể gây đông máu có thể dẫn đến tử vong, nhiều quốc gia đã ngưng sử dụng nó.
Tuy nhiên, Astrazeneca đã chối cãi việc này, và chỉ đến tháng 2/2024 mới buộc
phải thừa nhận khi bị kiện ra tòa.
- Tác dụng phụ nguy hiểm này dẫn đến việc
vaccine này bị Ủy ban Châu Âu rút giấy phép, và cuối cùng Astrazeneca phải thông báo
thu hồi trên toàn cầu từ tháng 5/2024.
- Như vậy, Astrazeneca đã lừa hàng triệu người dân tiêm chủng
trong suốt 3 năm 2021-2023, trước khi bị buộc thừa nhận và thu hồi
vaccine năm 2024. Đây là một vụ việc kinh điển (thường gặp) về sự gian dối của
các hãng dược phẩm.
- Các cơ quan y tế công đã tạo ra sự hoảng loạn,
một cách ‘CỐ Ý’. (bài báo tiếng Việt bỏ mất chữ này!)
- Sự hoảng loạn này dẫn đến HÀNG TRĂM NGÀN
CÁI CHẾT không do covid.
- Phong tỏa: Tác hại GẤP 5 LẦN lợi ích.
- Hầu hết các quốc gia tập trung chôn vùi sai lầm
của Chính phủ và né tránh trách nhiệm giải trình!!
2) Đọc lại bài
cũ:
- 100.000 tin nhắn bị lộ chứng minh sự CỐ Ý gieo rắc
hoảng loạn để thúc đẩy cách chính sách sai trái!
- Hàng ngàn bác sĩ, nhà khoa học đã vạch trần
sự dối trá trong dịch covid, bao gồm phong tỏa. Nhưng bị phớt lờ và bôi nhọ!
3) Tại sao
phong tỏa (và cách ly, khẩu trang…) không có tác dụng?
- Bởi vì covid lây trong không
khí, chứ không phải chỉ qua ‘giọt bắn’. Đó là một sự
dối trá cố ý vào đầu dịch!
1) Tin tức báo
chính thống về các Chính sách covid:
Ngày 04/01/2024,
trang National Review có một bài báo xuất sắc với tựa đề “Các quan chức
giờ đây thừa nhận Thảm họa do các Chính sách
covid của họ gây ra”. [1]
Báo Tuổi trẻ đã
dịch lại bài này và đăng ngày 06/01/2024, tựa đề “Quan chức Anh, Mỹ thừa
nhận sai lầm khi phong tỏa chống COVID-19”. [2]
Người đọc nên đọc kỹ bài báo này.
- Tuy nhiên, bài báo Tuổi trẻ đã lược bớt 1 chữ
rất quan trọng, đó là chữ “CỐ Ý” (gây hoảng loạn trong chính sách
covid)! Bài báo tiếng Anh ghi rõ chữ đó.
Một số trích dẫn:
- “Đáng lẽ trách nhiệm chính của hệ thống y
tế công cộng trong đại dịch là giữ cho mọi người bình tĩnh và duy trì hoạt động
xã hội. Nhưng các quan chức y tế công cộng đã làm điều ngược lại. Một cách CỐ Ý. (chữ “Intentionally” đã bị lược mất)
- Sự hoảng loạn mà các quan chức y tế
công cộng tạo ra đã dẫn đến hàng trăm nghìn ca tử vong không phải do
COVID-19… những tổn hại lớn về kinh tế và xã hội, và tệ nhất
là một thảm họa chưa từng có trong giáo dục.
- Các báo cáo nghiên cứu của Học viện Hoàng gia
London và Đại học Manchester gợi lên nhận định: “Tác hại của lệnh
phong tỏa ở Anh lớn hơn GẤP 5 LẦN lợi ích thu
được”.
- Hầu hết các quốc gia tập trung chôn vùi sai lầmcủa Chính phủ và né tránh trách nhiệm giải trình!!”
Bình luận:
- “Tác hại lớn gấp 5 lần lợi ích” nghĩa là sao? – Nghĩa
là cứ 1 người khỏi chết vì covid nhờ phong tỏa, thì nó sẽ GIẾT 5 NGƯỜI vì những lý
do khác (bệnh không được điều trị/ cấp cứu kịp thời, tự sát do tuyệt vọng
hay trầm cảm…).
- Một loạt tai họa về kinh tế xã hội, mà
hiện nay rõ ràng nhất là kinh tế tuột dốc không phanh, mà đói nghèo làm
giảm chất lượng cuộc sống và tuổi thọ trung bình (tức cũng là
gián tiếp giết người)!
- Và nên nhớ là sự thật chỉ đang dần được “khui
ra” nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của những người đã bị bôi nhọ thậm tệ, còn
những điều mà người ta “thừa nhận” luôn bị nói giảm đi hoặc chối bỏ!
2) Sự cố ý gieo
rắc hoảng loạn và Hàng ngàn bác sĩ, nhà khoa học đã bị bôi nhọ vì nói đúng!
Người đọc nên
nhớ kỹ chữ “CỐ Ý” (intentionally) trong bài báo
tiếng Anh.
- Đọc lại bài
52 về tin nhắn bị lộ của cựu Bộ trưởng Anh về việc “dọa cho dân chúng
sợ tụt quần”, để thấy rằng: họ đã CỐ Ý gieo rắc hoảng
loạn, để thúc đẩy các chính sách sai trái như phong tỏa,
thẻ xanh, xét nghiệm hàng loạt, khẩu trang, và vaccine… [3]
Sự thật là đã
có HÀNG NGÀN bác sĩ, nhà khoa học tham gia cảnh báo và phản đối các chính
sách sai trái này, nhưng họ đã bị truyền thông bôi nhọ một cách thảm
hại, và các quan chức đã cố ý phớt lờ họ!
- Xem lại bài
53 đã viết chi tiết về hàng ngàn bác sĩ, nhà khoa học vạch trần sự
dối trá về covid. [4]
Trong đó, về vấn đề phong tỏa thì có:
- Nổi bật nhất là Tuyên bố Great
Barrington, do 3 giáo sư các trường ĐH danh tiếng nhất viết: Gs. Martin
Kulldorff (Harvard), Gs. Jay Bhattacharya (Stanford), Gs. Sunetra Gupta (Oxford).
Tuyên bố này đã nhận được 900.000+ chữ ký ủng hộ, bao gồm 16.000+
nhà khoa học và 47.000+ bác sĩ, y tá… (mục
III.1 bài 53)
- Gs. John Ioannidis: Giáo sư ĐH Stanford, h-index
250+, 500.000+ lượt trích dẫn, 1.400+ ấn phẩm khoa học.
- Gs. Michael Levitt: Giáo sư ĐH Stanford,
từng đoạt giải Nobel hóa học 2013!
- Bs. Scott Atlas: cựu Giáo sư ĐH Stanford,
h-index 59, cựu cố vấn Covid của tổng thống Mỹ (nhưng bị phớt lờ).
- Gs. Carl Heneghan: giáo sư dịch tễ
học, giám đốc trung tâm Y học thực chứng ĐH Oxford, h-index 86.
- Gs. Udi Qimron: giáo sư ĐH Tel Aviv,
h-index 30.
- Ts. Mike Yeadon: tiến sĩ dược lý học,
cựu phó chủ tịch phân viện Hô hấp của Pfizer.
- Gs. Denis Rancourt: giáo sư ĐH Ottawa,
h-index 41.
- Gs. Paul Dolan: giáo sư ĐH Kinh tế chính
trị Luân Đôn, h-index 76.
- Ts. Paul Alexander: cựu giáo sư dịch tễ
học, cựu cố vấn chính sách chống dịch covid. (bị sa thải vì phản đối Fauci!)
- Bs. quân y Phạm Ngọc Thắng và Bs. Lương
Trường Sơn (nguyên Phó viện trưởng Viện Sốt rét – Ký sinh trùng TP.HCM).
- Và vô số những bác sĩ, chuyên gia khác…
3) Tại sao
phong tỏa (và cách ly, khẩu trang…) không có tác dụng?
- Lý do là vì covid lây trong không
khí, chứ không phải chỉ qua ‘giọt bắn’. Đó là một sự
dối trá cố ý vào đầu dịch và WHO đã chờ đến khi tiêm vaccine rồi mới thừa nhận điều này! [5]
- Những điều trên chính là sự thật về chính sách
covid, đặc biệt là về vấn đề phong tỏa (phong thành).
- Nhưng những điều đó cũng chỉ là một góc
nhỏ của sự thật. Sự thật là các chính sách chống dịch đã gây tác hại
vô cùng lớn (lớn hơn nhiều cái dịch bệnh bị thổi phồng), với vô số người chết, kinh
tế suy thoái và hệ lụy vẫn đang kéo dài vì những loại vaccine không an toàn!
Bài học rút ra:
- Cảnh giác với những sự thổi phồng dịch
bệnh, của truyền thông cũng như các cơ quan y tế công!
- Cảnh giác với các chính sách chống
dịch liên quan: phong tỏa, thẻ xanh, khẩu trang, cách ly, xét nghiệm
diện rộng, vaccine…
- Không ký vào Hiệp ước đại dịch, Điều chỉnh điều
lệ y tế quốc tế vì xâm phạm chủ quyền quốc gia. (xem bài
54)
- …
(tham khảo mục
08/03/2023 sự thật về khẩu trang và giãn cách xã hội)
a) 14 tháng dịch trước khi có vaccine: 35 người chết
Trong 14
tháng dịch trước khi có vaccine, từ 13/01/2020 đến 07/3/2021, cả
nước Việt Nam chỉ
có 35 ca chết
do covid. Đó là thống kê chính thức, đã gửi cho WHO, và đây là biểu
đồ của Our World in Data theo số liệu chính thức này:
b) 14 tháng dịch khi có vaccine covid: 43.000 người chết
Trong 14
tháng dịch khi có vaccine, từ 08/3/2021 đến 31/5/2022, số ca tử
vong ở Việt Nam tăng lên với một tốc độ kinh hoàng, và đạt đến đến 43.079 ca! (kể từ sau đó, số ca tử
vong tăng rất ít, gần như không đáng kể)
Đó cũng là
thống kê chính thức, đã gửi cho WHO, và đây là biểu
đồ của Our World in Data theo số liệu chính thức này:
=> Số
ca tử vong ở Việt Nam TĂNG GẤP 1.200 LẦN kể từ khi có vaccine covid!
d) Xem xét biểu đồ:
Hình dưới là 3 biểu đồ số liệu:
- Biểu đồ số ca nhiễm covid mới (A), theo thời gian. [1]
- Biểu đồ số ca tử vong ‘covid’ mới (B), theo thời gian. [2]
- Biểu đồ số mũi tiêm covid triển khai (C), theo thời gian. [3]
- Khoảng thời gian của các biểu đồ đều lấy từ ngày đầu tiên tiêm vaccine covid, tức là từ 08/03/2021 đến 30/6/2023.
Giữa biểu đồ Số ca nhiễm (A) và biểu đồ Số ca tử vong (B):
- Nếu tử vong là do covid, thì: Số ca tử vong phải tỉ lệ thuận, tăng giảm đồng bộ với Số ca nhiễm; và Số ca nhiễm phải tăng lên và đạt đỉnh trước Số ca tử vong (vì nhiễm rồi mới chết)!!!
Nhưng thực tế số liệu thì:
- Khi Số ca tử vong tăng vọt và đạt đỉnh, thì Số ca nhiễm vẫn ở gần đáy và không tăng bao nhiêu. Khi Số ca tử vong đã giảm xuống gần đáy, thì số ca nhiễm mới bắt đầu leo thang và lên tới đỉnh!
- Dạng đồ thị của Số ca tử và Số ca nhiễm hoàn toàn KHÔNG GIỐNG NHAU!
=> Số ca tử vongKHÔNG có sự tương quan (nhân quả) với Số ca nhiễm!
Trong khi đó, giữa biểu đồ Số ca tử vong (B) và Số mũi tiêm vaccine (C):
- Quãng thời gian Số ca tử vong đạt đỉnh cũng đồng thời chính là quãng thời gian Số mũi vaccine đạt đỉnh.
- Đường biểu diễn Số ca tử vong tăng giảm có hình dạng rất gần giống đường biểu diễn Số mũi tiêm vaccine: Khi vaccine tăng thì tử vong cũng tăng, khi vaccine giảm thì tử vong cũng giảm!!
=> Số ca tử vong CÓ tương quan (nhân quả) với Số mũi tiêm!
Nhận định:
- Nhắc lại, số liệu chính thức rất rõ ràng: 14 tháng dịch trước khi có vaccine (08/03/2021) chỉ có 35 người chết. Nếu không có yếu tố mới là vaccine, 14 tháng dịch tiếp theo hoàn toàn có khả năng vẫn sẽ chỉ có thêm khoảng 35 người chết. Tuy nhiên, yếu tố vaccine được đưa vào đã khiến 14 tháng đó có đến 43.000 người chết, tăng gấp 1.200 lần!
- Các biểu đồ trong bài này tiếp tục chứng minh một cách rất trực quan rằng: Số ca tử vong bị cho là ‘do covid’ (43.000+) thực ra không hề do covid, mà phần lớn là do VACCINE COVID.
2) Joel Smalley: do vaccine
covid.
Joel
Smalley là một nhà nghiên cứu độc lập, có kinh nghiệm nhiều năm về phân tích số
liệu. (chi tiết xem tại bài
53, phần II, mục 16)
Ông đã có một bài viết kèm video rất ấn tượng “COVID
Requiem Aeternam”, trong đó phân tích số liệu ở 202
quốc gia, và số liệu này cho thấy: việc tiêm
vaccine covid làm TĂNG SỐ CA TỬ VONG, chứ không hề giảm.
- Đầu tiên,
ông có biểu đồ số người chết do covid theo thời gian, tính trên 1 triệu dân, đến hết tháng 3/2022: (Ví dụ 43.079 người chết tương đương 443 ca/
triệu dân. có thể dùng biểu đồ ở phần a) vẫn được, kết quả sẽ không khác) (thời điểm hết tháng 3/2022
là do tháng 4/2022 thì ông viết và đăng bài, chứ không có gì đặc biệt)
- Cuối cùng, chồng ghép 2 biểu
đồ lại với nhau (đảm bảo đúng về trục tung - thời gian), ông có được biểu
đồ tổng hợp từ đầu dịch đến tháng 3/2022 như sau: (đường màu đỏ là chết “do
covid”, đường màu xanh là tỉ lệ tiêm chủng)
Như vậy,
ta có 2 sự thật:
1) Số người chết “do covid” tăng gấp 1.200 lần sau khi có vaccine covid. (trong cùng khoảng thời gian 14
tháng dịch bệnh)
2) Biểu đồ tử vong “do covid” gần như TRÙNG KHỚP với biểu đồ tỉ lệ tiêm
vaccine. (tiêm
chủng tăng tới đâu thì tử vong tăng tới đó)
Hai sự thật trên KHÔNG THỂ
xảy ra nếu vaccine là “hiệu quả và an toàn”!!! Vậy, có
lý do nào để không đi đến kết luận rằng: “vaccine đã khiến người ta dễ chết “do covid” hơn”???
(xem bài
48 với hàng ngàn nghiên cứu về các tác hại của vaccine covid và bài
42 về số liệu thực tế không thể chối cãi chứng minh sự nguy hại này)
3) Bs. Lương Trường Sơn: do các
khu cách ly, không được điều trị các bệnh nền, suy sụp & kiệt quệ, và dùng
máy thở sai cách!
Bs. Lương Trường
Sơn là Bác sĩ giám đốc phòng khám Da liễu Đồng Diều; Ủy viên Ban chấp hành Hội
Da liễu Việt Nam; Nguyên Phó Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng TP HCM; Nguyên Phó Giám đốc bệnh viện Da liễu Trung Ương Quy Hòa. Ông là 1 bác sĩ rất hiếm hoi ở Việt Nam có tầm nhìn và bản lĩnh để
công khai phản biện các vấn đề về dịch covid và vaccine. (xem bài
53, phần I, mục 65)
Ngày 10/9/2022,
ông có bài viết “TẠI
SAO SÀI GÒN RA ĐI NHIỀU THẾ?” lý giải vì sao Sài Gòn có số lượng
tử vong vượt trội so với các nơi khác (nếu do bệnh, thì mọi nơi sẽ phải có tỉ
lệ gần như nhau). Ông có 2 kết luận chính:
- Do những người có
sẵn bệnh mãn
tính (bệnh nền), nhưng bị tập trung tại các khu cách ly, thiếu thuốc, thiếu chăm sóc, dẫn
đến tử vong!!!
Sử dụng máy thở vẫn tiềm ẩn một số rủi ro
thường gặp như viêm phổi, xẹp phổi, xuất hiện cục máu đông,…và hội chứng
nghiện máy thở.
Người chỉ định và sử dụng máy thở phải là BS
chuyên khoa Hồi sức Cấp cứu, không phải BS nào cũng sử dụng được. Nếu không
phải chuyên khoa – không có thực hành về máy nhiều thì chỉ định và vận hành máy
thở là rất nguy hiểm cho bệnh nhân, đôi khi lại đem
lại tai hoạ cho bệnh nhân nhiều hơn là lợi ích (nôm na có khi chết đến
nhanh hơn).
Tôi nhớ hồi trước học chuyên khoa về Hồi sức
Cấp cứu tại A9 (BV Bạch Mai), chính thầy GS Vũ Văn Đính và cô GS Nguyễn Thị Dụ
hướng dẫn. Tôi có học chuyên về máy thở vài tháng, nhưng khi về đơn vị vẫn còn
lúng túng, chưa tự tin vận hành một mình.
Vậy mà cái thời “Thần tốc” ấy, dưới sự chỉ đạo
của BYT đã huy động BS tất cả các chuyên ngành, như Y học cộng đồng, Tai mũi
họng, Răng hàm mặt, Dự phòng, Xét nghiệm,…tham gia điều trị…, và hồi ấy, nhiều
doanh nghiệp, mạnh thường quân tặng hàng ngàn máy thở,… mà tử vong vẫn cứ tăng
hằng ngày là vậy !? Nghĩ mà sợ, bị bệnh mà được ưu tiên máy thở, chưa chắc đã
là may (?!)
- Trước khi có
vaccine, tỉ lệ tử vong do covid chỉ là 0,15%, trong số đó đến 99% là có bệnh nền, đại đa số những người chết là người già, (gần
như) không có bất cứ trẻ em khỏe mạnh nào
chết do covid.
(xem mục
13/4/2023 cùng bài)
- WHO và các bên liên
quan đã thổi phồng độ nguy hiểm của covid lên ít nhất 30 lần để gây hoang mang và khiến người
ta đi tiêm vaccine. (bài
46, mục 20/4/2023)
Bài này đã chỉ ra rằng, sau khi có vaccine covid:
- Số người chết ở Việt
Nam TĂNG GẤP
1.200 LẦN và con
số tử vong bám sát tỉ lệ tiêm chủng!
- Lý do: vaccine, điều kiện sống/ điều trị tại khu cách ly tập trung và dùng máy thở sai cách!!!
Và đó là
SỰ THẬT về tử vong do covid tại việt nam, cũng như trên toàn thế giới:
- ĐA SỐ những người được
ghi là “chết do covid” lại không phải chết vì covid!!
- Họ đã chết vì vaccine cũng như
các biện pháp chống dịch phản khoa học!!!
- Những nhận xét như “trước
khi có vaccine chết nhiều, sau khi có vaccine chết ít” là những điều hoàn
toàn nhảm nhí, khi xét số liệu thực tế và các biểu đồ ở trên.
Mục
này sẽ chỉ ra 3 nguồn nghiên cứu khoa học và số liệu chính thức, trước khi có vaccine, chứng minh luận điểm này:
-Nghiên
cứu số liệu tại Mỹ (của
FAIR Health và Gs. Marty Makary
ĐH Johns Hopkins): trong 48.000 trẻ em nhiễm covid, KHÔNG (0) có trẻ em khỏe mạnh (0-18 tuổi) nào chết. (trẻ em khỏe mạnh là trẻ không có bệnh nền,
nếu chết và có bệnh nền, ví dụ ung thư/ bệnh tim, thì khả năng cao chính là chết
do bệnh nền, chứ không phải do covid)
-Nghiên cứu số
liệu tại Đức: dữ liệu
khổng lồ trên toàn nước Đức, trong hơn 1,4 triệu trẻ em nhiễm covid, KHÔNG (0) có trẻ em khỏe mạnh (5-17 tuổi) nào chết.
-Số liệu chính thức
tại Thụy Sĩ (đăng trên NEMJ): dữ liệu
khổng lồ chính thức của Cục Y tế công Thụy Sĩ, trong 1.951.905 trẻ em Thụy Sĩ, có
15 trẻ phải vào phòng chăm sóc đặc biệt với covid, nhưng KHÔNG (0) có đứa trẻ (0-16 tuổi) nào chết. (kể cả trẻ có bệnh nền)
(Tham khảo clip phỏng vấn vàbài viết của
Gs. Marty Makary đăng trên Wall Street Journal về việc CDC tuyên bố có
335 trẻ em chết 'với' covid, (chỉ ngang số trẻ chết trong 1 mùa cúm), nhưng đến 21.000 nhân sự CDC chưa bao giờ tiến hành xác định những đứa trẻ này chết vì covid hay vì bệnh nền, ví dụ ung thư. Có nghĩa là CDC chơi trò "lập lờ đánh lận con đen")
2) 99% người được nói là chết với covid
đều có bệnh nền, chỉ có 1% không có bệnh nền!
Tháng
7/2021, CDC Mỹ có một báo cáo số liệu lặng lẽ, với dữ liệu trong 1 năm đầu
của dịch bệnh (tháng 3/2020 – 3/2021), trong số 80.174 người được ghi nhận
là chết 'với' covid (không phải 'do' covid), thì:
-Có 79.434 người có từ 1 đến trên 10 bệnh
nền, chiếm 99,1% số ca tử vong.
-Chỉ
có 740 người không có bệnh nền, chiếm 0,9% số ca tử vong!!!
Nhận
định:
-Trong bài
20, 2 nghị sĩ bang Oregon đã tố cáo việc CDC thay đổi cách ghi nhận
nguyên nhân tử vong, nhằm thổi phồng độ nguy hiểm của covid.
-Bài
này đưa ra chứng cứ cụ thể, rằng số người tử vong do covid đã bị thổi phồng gấp vài chục lần, vì 2 lý do: 1) là người ta đã mập mờ
người chết vì bệnh nền thành người chết vì covid. 2) là người ta đã mập mờ chuyện
“chết với covid” thành “chết do covid”.
3) 31 nghiên cứu khoa học: Tỉ lệ tử vong
do nhiễm covid (IFR) ở người trẻ tuổi (dưới 70) là rất thấp, NGANG CÚM.
3.1. Tỉ lệ tử vong do nhiễm covid (IFR) là rất thấp, chỉ khoảng 0,15%:
(H-indexlà một chỉ số phản ánh thành tích nghiên cứu khoa học
thông qua mức độ ảnh hưởng của các bài báo khoa học được công bố. Một bài báo cho biết những người trong Viện hàn lâm khoa học Mỹ có
h-index trung bình là 45. Ở Việt Nam, một trong những chuyên gia ngành y
có h-index cao nhất nước là Ts. Trần Xuân Bách ở ĐH Y Hà Nội, có h-index là 56. Stephen
Hawking có h-index
là 132; h-indextrên 200 thì cả thế giới chỉ có khoảng
300 người.)
Tháng 01/2021, bản tin của WHO đăng nghiên cứu của ông(đã bình duyệt và xuất
bản), phân tích số liệu nhiều nghiên cứu khác cho biết rủi ro tử
vong (IFR) do covid là vàokhoảng 0,23-0,27% (tính đến tháng 9/2020, trước khi có vaccine), và nếu chỉ xét người 0-69 tuổi thì nguy cơ tử vong chỉ khoảng
0,05%.
-Và trong nghiên cứu còn nhận
định rằng tỉ lệ tử vong trung bình có thể còn thấp hơn, vì các số liệu này thường
đến từ các nước có tỉ lệ tử vong tương đối cao (so với các nước khác).
3.2. Phần lớn người chết "do covid" đều lớn tuổi, nguy cơ tử vong do covid ở người trẻ là KHÔNG ĐÁNG KỂ:
Tháng 01/2023, ông công bố nghiên cứu phân tích số liệu
chi tiết(đã bình duyệt và xuất bản), cho thấy rằng trước khi có vaccine, rủi ro tử
vong do covid luôn là rất nhỏ, đặc biệt là ở
người trẻ tuổi: (ngang, thậm chí còn thấp hơn cúm, và sẽ còn
thấp
hơn khi có thuốc và điều trị đúng đắn, cũng như sau khi đã hình thành miễn dịch
tự nhiên)
-Lưu ý rằng nghiên cứu này sử dụng số liệu từ 31
nghiên cứu từ 29 quốc gia khác nhau, chứ không phải số liệu ông tự đưa ra, và
cũng không phải kết quả của 1 nghiên cứu riêng lẻ.
-Ngoài ra, tỉ lệ tử vong trên là đã
bao gồm bệnh nền (ví dụ tỉ lệ 0,0003% ở trẻ 0-18 tuổi). Nếu bỏ hết các ca chết do bệnh nền như đã nói ở mục 2),
thì các tỉ lệ mà người ta thực sự chết vì covid còn nhỏ đi vài chục lần!
Sự thật là: Trước khi có vaccine, đại đa số những người chết với covid đều
là người già trên 65 tuổi (đa số là trên 80).
-Một
nghiên cứu khoa học khác của nhóm Gs. Ioannidis xuất bản từ tháng 9/2020, với các số liệu thống kê tại 11 nước
châu Âu, Mỹ và Canada đã chỉ rõ rằng: số lượng dưới 65 tuổi chỉ chiếm khoảng
4,5-22,7%
tổng số người chết với covid; và nếu xét người dưới 65 tuổi không có bệnh nền,
thì tỉ lệ đó chỉ còn 0,7-3,6% (trên toàn bộ số người chết với covid)!!!
(những sự thật này đã được viết từ bài
14, nhưng người ta đã lờ đi, để hù dọa cả thế giới và thúc đẩy tiêm
vaccine!)
4) Kết luận:
-Rủi ro tử
vong do nhiễm covid luôn là vô cùng nhỏ từ
trước khi có vaccine.
(nếu sau khi có vaccine, mà tỉ lệ tử vong cao hơn,
thì đơn giản đó là do vaccine; ai chưa biết thì nên đọc về ADE và OAS để biết rằng
vaccine hoàn toàn có thể khiến bệnh nặng hơn cũng như tử vong)
-Rủi ro tử vong đặc biệt nhỏ ở
trẻ em, và KHÔNG CÓ bất cứ trẻ em khỏe mạnh nào
chết vì covid, trước khi có vaccine! Nếu khi tiêm vaccine covid, có bất cứ đứa trẻ nào chết, thì có nghĩa là vaccine đã có hại nhiều hơn lợi (nếu có), đối với nhóm tuổi này!
(không có bất cứ lý do nào để tiêm 1 thứ vaccine
có nguy cơ gây tử vong gấp
50 lần vaccine cúm, đặc biệt là ở trẻ em)
-Dịch bệnh và
độ nguy hiểm của covid đã bị thổi phồng, bởi hàng loạt các tổ chức quốc tế, để thúc đẩy việc tiêm
vaccine.
(chi tiết về sự thổi phồng mức độ nguy hiểm của dịch
covid đã được cập nhật chi
tiết trong bài
46, mục ngày 20/4/2023)
-Tất cả những thông tin trên đều là những nghiên cứu khoa học đã qua bình duyệt và xuất bản, và là sự thật KHÔNG THỂ CHỐI CÃI.
- Gs. Bs. Marty Makary (ĐH Johns Hopkins) VẠCH TRẦN 10 ĐIỀU DỐI TRÁ VỀ
DỊCH COVID trong hội nghị bàn tròn của Quốc hội Mỹ.
- Gs. Bs. Jay Bhattacharya (ĐH Standford): một nhóm
quan chức y tế quyền lực đã tuyên truyền dối trá núp bóng “khoa học”.
- Thống đốc Florida tái khẳng định những điểm dối trá
và cho biết “Họ sử dụng quyền lực, cấu kết và áp đặt những thông tin tuyên truyền sai trái
về covid”
2) Toàn văn bài báo của Bs. Marty Makary vạch trần 10 điều dối trá về dịch covid.
0:00 / 0:00
15 seconds
15 seconds
Link Rumble của video clip. (Ghi chú: xem trên Rumble, tiếng và hình lệch nhau 1-2 giây, tải về xem thì không bị)
1) Hội nghị bàn tròn về covid của Hạ
viện Mỹ; Bs. Standford; Thống đốc Florida.
Video
clip trên gồm 3 phần, chi tiết như sau:
i) Hội nghị bàn tròn về covid của Hạ
viện (Quốc hội) Mỹ:
- Bs.
Georges C. Benjamin:
giám đốc Hiệp hội Y tế công Hoa Kỳ (APHA), tác giả của hơn 200 bài báo
khoa học và chương sách.
Buổi
hội nghị đáng chú ý vì là đây là những chuyên gia nói thẳng nói thật, và vạch
trần các sai trái, chứ không phải các chuyên gia dối trá trong suốt mấy năm
dịch vừa qua.
Trong
đó, một phần phát biểu của bác sĩ Marty Makary vạch trần rất nhiều điểm dối trá về
dịch covid đã được trích trong video clip trên.
- Ông đã nhận định: “Thủ phạm tung ra nhiều thông tin sai lạc
nhất trong suốt đại dịch chính là Chính phủ Mỹ”
(trước đó, đã có nhiều người khác cũng có cùng nhận định, bao gồm nghị sĩ Rand Paul và dân biểu Jim Jordan)
- Và: “Chúng ta đã thấy đi thấy lại
những điều vô cùng bất hợp lý, đi rất xa khỏi việc nhận định dựa trên thông tin
có được. Chúng ta đã thấy một vài thứ không thể nào tha thứ được… các quan chức y tế đã gian dối có ý
thức, họ đã nói láo…” (và những lời dối trá này không phải chuyện riêng của nước Mỹ, mà đã lan khắp thế giới, và tạo ra những "chính sách chống dịch" sai trái, phản khoa học, gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn)
Toàn
bộ bài viết chi tiết của Bs. Makary vạch trần 10 ĐIỀU DỐI TRÁ về dịch
covid, với dẫn chứng cụ thể, sẽ được trình bày chi tiết ở mục 2) ngay tiếp
theo bên dưới.
(10 điều
dối trá về: 1) Miễn dịch tự nhiên 2) Khẩu trang 3) Đóng cửa trường học 4) Rủi ro viêm cơ tim sau tiêm 5) Người trẻ tuổi tiêm vaccine có lợi 6) Ép buộc giúp tăng tỉ lệ tiêm vaccine 7) Virus
corona có nguồn gốc tự nhiên 8) Khoảng cách 2 mũi vaccine 9) Vaccine
lưỡng trị 10) Hậu covid)
ii) Bs. Jay Bhattacharya:
Trong
phần tiếp theo của video clip là trích một đoạn phỏng vấn của một khách mời
khác của buổi hội nghị là Bs. Jay Bhattacharya (đã có giới thiệu qua ở trên).
Trích
đoạn phỏng vấn của ông có nội dung chính là:
- Những điều dối trá được tuyên truyền về dịch covid (khẩu trang, giãn cách…) hoàn
toàn KHÔNG phải là sự đồng thuận của giới khoa học,
- mà sự thật là: có một nhóm nhỏ quan chức y tế đầy quyền
lực đã cấu kết với các tổ chức truyền thông (và công nghệ) để kiểm soát các
thông tin tuyên truyền
đến công chúng và chính trị gia!
Phần
cuối của video clip là trích đoạn phát biểu của thống đốc Ron DeSantis bang
Florida.
- Đoạn phát biểu trích từ cuộc
họp báo ngày 27/02/2023.
Nội dung chính của cuộc
họp báo này là về
việc bang Florida quyết định kết thúc các đặc quyền trước đó dành cho Walt
Disney World.
- Tuy nhiên, ông cũng có đề cập về
những tuyên truyền sai trái về covid, và nói rằng họ đã sử dụng quyền lực, áp đặt những
thông tin tuyên truyền sai trái về covid.
2) Toàn văn bài báo của Bs. Marty Makary vạch trần 10 điều dối trá về dịch covid:
Ngay
trước ngày ra trình bày tại buổi hội nghị trên, Bs. Marty Makary đã gửi đăng
báo bài viết đầy đủ, vạch trần 10
ĐIỀU DỐI TRÁ về
dịch covid. Bài báo
được đăng
đầu tiên trên tờ New York Post, trước khi được đăng lại trên nhiều tờ báo lớn khác trên thế
giới. Toàn văn bài báo được dịch ra như sau: (những dòng in nghiêng là ghi
chú kèm thêm của người viết)
“Trong
vài tuần qua, một loạt các phân tích được công bố bởi những nhà nghiên cứu có
uy tín cao đã phơi bày sự thật về các quan chức y tế công trong thời kỳ COVID:
Phần lớn thời gian, họ đã sai.
Phải
nói rõ là các quan chức y tế công cộng đã không sai khi đưa ra các khuyến nghị
dựa trên những gì được biết tại thời điểm đó.
Điều
đó có thể hiểu được. Bạn hành động với dữ liệu bạn có.
Nhưng,
họ đã sai vì họ từ chối thay đổi chỉ dẫn của mình khi đối mặt với các bằng
chứng mới.
Khi
một nghiên cứu không củng cố các chính sách của họ, họ đã loại bỏ nó và kiểm duyệt các ý kiến phản đối.
Đồng
thời, Trung tâm Kiểm soát và Phòng bệnh (CDC) đã tự vũ khí hóa nghiên cứu khoa
học bằng cách đưa ra các nghiên cứu lỗi của chính mình trên tạp chí
y khoa không được bình duyệt của riêng mình, MMWR.
Cuối
cùng, các quan chức y tế công cộng đã chủ động tuyên truyền những thông tin
sai lệch đã hủy hoại
cuộc sống và làm tổn
hại vĩnh viễn niềm tin của công chúng vào ngành y.
Dưới
đây là 10 thứ họ đã lừa dối người Mỹ:
Thông tin sai lệch #1: Miễn dịch tự nhiên mang lại rất ít khả
năng bảo vệ so với miễn dịch do tiêm phòng
Một
nghiên cứu của Lancet đã xem xét 65 nghiên cứu lớn ở 19 quốc gia về khả năng
miễn dịch tự nhiên. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng miễn
dịch tự nhiên tối thiểu cũng hiệu quả bằng(hoặc hơn) hai mũi tiêm vaccine COVID.
Trên
thực tế, dữ liệu khoa học luôn ở đó — từ 160 nghiên cứu, dù kết quả của những
nghiên cứu này lại bị Facebook chụp mũ là vi phạm chính sách “thông tin sai
lệch”.
Kể
từ trận dịch hạch thành Athen năm 430 trước Công nguyên, người ta đã quan sát
thấy rằng những người hồi phục sau khi nhiễm bệnh được
bảo vệ khỏi bệnh nặng
nếu tái nhiễm.
Đó
cũng là quan sát của hầu hết mọi bác sĩ hành nghề trong 18 tháng đầu tiên của
đại dịch COVID.
Hầu
hết những người Mỹ bị sa thải vì không tiêm vắc xin COVID đều đã có kháng thể
vô hiệu hóa vi rút một cách hiệu quả, nhưng chúng là những kháng thể đã không
được chính phủ không công nhận.
(Ghi chú: đã được chứng minh qua hàng trăm nghiên cứu, chi tiết tại mục
08/3/2023 cùng bài)
Thông tin sai lệch #2: Khẩu trang ngăn ngừa lây truyền COVID
Đánh
giá Cochrane được coi là đánh giá độc lập và có giá trị cao nhất về bằng chứng
trong y học.
Khi
được hỏi về đánh giá dứt khoát này, Giám đốc CDC, Tiến sĩ Rochelle Walensky đã hạ
thấp nó, lập luận rằng đó là thiếu sót vì nó tập trung vào các nghiên cứu ngẫu
nhiên có kiểm soát.
Nhưng
đó lại là điểm mạnh lớn nhất của đánh giá! Các nghiên cứu ngẫu nhiên được xem
là tiêu chuẩn vàng về bằng chứng y khoa.
Họ
trích dẫn các nghiên cứu được thiết kế kém đã bỏ sót tỷ lệ biến chứng.
Một
loạt các nghiên cứu được thiết kế tốt đã nói điều ngược lại.
Giờ
đây chúng ta biết rõ rằng ở nam giới từ 16 đến 24 tuổi, viêm cơ tim nhiều gấp
từ 6 đến 28 lần sau khi tiêm vắc-xin COVID so với sau khi bị nhiễm bệnh.
Đó
có lẽ là lý do tại sao CDC cố tình không công bố dữ liệu về tỷ lệ nhập viện ở
những người Mỹ dưới 50 tuổi đã tiêm tăng cường, họ chỉ công bố tỷ lệ tương tự ở
những người trên 50 tuổi.
(Ghi chú: tại mục
18/9/2022 bài 45,
người viết đã chỉ ra nghiên cứu khoa học cho thấy: Tiêm bổ sung vaccine covid GÂY NHẬP VIỆN
GẤP 18-98 LẦN so với nhiễm covid, ở người 18-29 tuổi)
(Về 2 chuyên gia FDA đã nghỉ việc để phản đối, đó là Ts.Marion Gruber và Bs. Philip
Krause, tham khảo bản tin tại
đây và tại
đây)
Thông tin sai lệch #6: Lệnh ép tiêm vaccine nâng cao tỷ lệ tiêm
chủng
Tổng
thống Biden và các quan chức khác đã yêu cầu sa thải những người lao động chưa
được tiêm chủng, bất kể rủi ro hoặc miễn dịch tự nhiên của họ.
Họ
đã yêu cầu các binh sĩ phải giải ngũ một cách bất chính và các y tá bị sa thải
giữa cuộc khủng hoảng nhân sự.
Nhưng
sau khi được công nhận rộng rãi rằng tiêm chủng không làm giảm lây truyền, các lệnh
bắt buộc vẫn được duy trì và vẫn còn cho đến ngày nay.
Một
nghiên cứu gần đây của Đại học George Mason trình bày chi tiết về việc lệnh bắt
buộc tiêm chủng ở 9 thành phố lớn của Hoa Kỳ đã không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ
tiêm chủng như thế nào.
Chúng
cũng không có tác động đến tốc độ lây truyền COVID.
(Ghi chú: trong video clip phát biểu tại Hạ viện Mỹ, Bs. Makary nói thêm
1 câu rất hay rằng: điều duy nhất mà lệnh ép tiêm vaccine làm được là khiến
người ta từ chối tất cả vaccine, bao gồm cả các vaccine trẻ em)
Thông tin sai lệch #7: Giả thuyết COVID bắt nguồn từ phòng thí
nghiệm Vũ Hán là thuyết âm mưu
Tiến
sĩ Francis Collins, người đứng đầu Viện Y tế Quốc gia, đã tuyên bố ông không
tin rằng vi rút đến từ phòng thí nghiệm (hiện tại vẫn vậy).
Cuối
cùng, bằng chứng chi tiết áp đảo lại chỉ ra nguồn gốc rò rỉ phòng thí nghiệm -
cùng nguồn gốc mà do hai nhà virus học rất nổi tiếng đã gợi ý cho Tiến sĩ
Anthony Fauci trong một cuộc họp ông tổ chức vào tháng 1 năm 2020 khi đại dịch bắt
đầu.
Theo
các tài liệu thu được bởi Bret Baier của Fox News, họ đã nói với Fauci
và Collins rằng virus có thể đã bị cải biến và có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm,
nhưng sau đó đột ngột thay đổi quan điểm của họ trong các bình luận công khai
vài ngày sau cuộc gặp với các quan chức NIH.
Các
nhà virus học sau đó đã được cơ quan của Fauci trao thưởng gần 9 triệu đô la.
(Ghi chú: đã được chứng minh, virus SARS-CoV-2 xuất phát từ phòng thí
nghiệm, với công nghệ của Mỹ, chi tiết tại bài
47)
(Đầu năm 2023, các thông tin tiếp tục khẳng định vấn đề này: Bộ
Năng lượng Mỹ đã tuyên bố virus corona xuất phát từ phòng thí nghiệm, và cựu giám đốc CDC
Mỹ là ông Robert Redfield cũng khẳng định khả năng này, trong
một buổi điều trần trước Quốc hội, đồng thời còn nói rằng người ta đã cố ý gạt bỏ giả
thuyết trên)
Thông tin sai lệch #8: Việc tiêm mũi thứ hai sau mũi thứ nhất ba
hoặc bốntuần là quan trọng
Vào
mùa xuân năm 2021, chỉ vài tháng sau khi triển khai vắc xin, dữ liệu đã rất rõ
ràng là dãn thời gian tiêm
vắc-xin (mũi 2) sau 3 tháng sẽ làm giảm tỷ lệ biến chứng và tăng khả năng miễn dịch.
Việc
loại bỏ vắc-xin đáng lẽ có thể cứu được nhiều mạng sống hơn khi người Mỹ đang
phân phối nguồn cung vắc-xin có hạn ở đỉnh điểm của dịch bệnh.
(Ghi chú: trong đường link phía trên, Bs. Makary đã đưa ra các nghiên cứu
khoa học cụ thể về vấn đề này, và đây là link
dịch tự động tiếng Việt)
Thông tin sai lệch #9: Dữ liệu về vắc-xin lưỡng trị là ‘rõ ràng
minh bạch’
Đó
là câu nói nổi tiếng của Tiến sĩ Ashish Jha, bất chấp việc vắc-xin lưỡng trị đã
được phê duyệt chỉ với dữ liệu từ tám con chuột.
Cho
đến tận hôm nay, chưa bao giờ có một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát đối với
vắc-xin lưỡng trị.
Theo
tôi, dữ liệu rất rõ ràng là những người trẻ tuổi không nên tiêm vắc xin lưỡng
trị.
Điều
đó đáng lẽ cũng đã tránh được nhiều trường hợp viêm cơ tim ở trẻ em.
(đã chứng minh, chi tiết xem lại bài
46, mục ngày 17/11/2022, trong đó chính chuyên gia FDA là Paul Offit đã lên án FDA cấp
phép vaccine lưỡng trị mà không tham vấn chuyên gia, và không có dữ liệu lâm
sàng trên người, mà chỉ là dữ liệu trên 8 con chuột. Trước đó tại mục
ngày 29/10/2022,
người viết cũng đã chứng minh FDA đã ‘treo đầu dê bán thịt chó’ khi phê duyệt
vaccine lưỡng trị)
Thông tin sai lệch #10: Cứ năm người thì có một người bị hậu COVID
Trung
tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh tuyên bố rằng 20% trường hợp nhiễm
COVID có thể dẫn đến hậu COVID.
Việc
cảm thấy mệt mỏi hoặc suy nhược nhẹ trong nhiều tuần sau khi bị ốm, không hoạt
động và ăn uống không ngon là điều bình thường.
Gọi
những trường hợp này là hậu COVID là sự y tế hóa cuộc sống bình thường.
(Ghi chú: tương tự mục #8, trong đường link phía trên, Bs. Makary đã đưa
ra các nghiên cứu khoa học cụ thể về vấn đề này, và đây là link
dịch tự động tiếng Việt)
Điều
đáng ngạc nhiên nhất về tất cả các thông tin sai lệch do CDC và các quan chức y
tế công tuyên truyền là không
có lời xin lỗi nào vì
đã giữ các khuyến nghị của họ quá lâu sau khi dữ liệu trở nên rõ ràng rằng họ đã sai hoàn toàn.
Các
quan chức y tế công cộng nói “bạn phải (làm như vậy)” khi câu trả lời đúng lẽ
ra phải là “chúng tôi không chắc.”
Ngay
từ đầu, do không có dữ liệu tốt, các quan chức y tế công cộng đã chọn con đường
theo chủ nghĩa gia trưởng nghiêm khắc.
Ngày
nay, họ phủ nhận hàng
núi nghiên cứu chắc
chắn cho thấy họ đã sai.
Ở
mức tối thiểu, CDC phải nói rõ và FDA nên thêm nhãn cảnh báo vào vắc-xin COVID,
nêu rõ những gì hiện đã biết.
Một
lời nhận lỗi nhỏ của những người đã dẫn chúng ta đi sai đường sẽ là bước đầu
tiên để xây dựng lại niềm tin.”
Bs. Marty Makary là giáo sư tại Đại học y Johns Hopkins và là
tác giả của cuốn sách “Cái giá chúng ta phải trả”.
3) Nhận định:
- Sự thật ngày càng trở nên
rõ ràng. Hàng loạt những điều đã được tuyên truyền trong
suốt 3 năm dịch covid là những điều dối trá.
- Những quan chức y tế quyền
lực trên thế giới đã cấu kết với nhau, với các hãng dược, hãng truyền thông và
hãng công nghệ… để khống chế và kiểm duyệt thông tin trên quy mô rất lớn.
- Tham khảo bài 52 về sự thật rằng: chính Chính phủ
Anh đã dùng các thủ đoạn gieo rắc sợ hãi
trong công chúng, từ đó thúc đẩy việc tiêm vaccine và phong tỏa, và bài 46 về rất nhiều những điều dối
trá của các tổ chức này.
- Và bất kể lý do và mục
đích của các cá nhân, tổ chức này là gì, thì hậu quả của các chính sách chống
dịch, đặc biệt là vaccine covid, là hàng triệu ca tử vong vượt mức và thương tật khắp thế giới (bài 42) với bằng chứng là hàng ngàn
nghiên cứu khoa học về tác hại của vaccine (bài 48).
- Và đó là lý của của các vụ
kiện và sự lên án vaccine covid ở khắp mọi nơi ngày càng tăng, được tổng hợp
tại bài 49.
-Lý
thuyết miễn dịch học biết rõmiễn dịch tự nhiên hiệu quả và bền vững hơn miễn dịch
do bất cứ loại vaccine nào tạo ra.
Bằng chứng thực tế về sự thật này là không thể chối cãi:
-Tháng 8/2021, một nghiên cứu quy mô lớn ở
Israel
với dữ liệu trên 100.000 người đã cho thấy: miễn dịch tự nhiên sau khi nhiễm Covid hiệu
quả hơn GẤP 13 LẦN so với vaccine covid. Nghiên cứu này đã bị làm
chậm, và đến tháng 4/2022 mới được thông qua thủ tục bình duyệt.
oVà người ta đã phớt lờ để tiếp tục thúc đẩy vaccine bất chấp
khoa học.
oChi tiết đã được đăng từ rất
sớm, tham khảo bài 14 về vấn đề này.
-Tháng 10/2021, một trang tin y khoa đã tổng hợp danh sách91
nghiên cứu cho thấy miễn dịch tự nhiên hiệu quả hơn vaccine covid. (91
nghiên cứu được đánh số rõ ràng, với đường dẫn đầy đủ)
-Ts. Paul Alexander và 5 nhà khoa học khác cũng đã tổng hợp một danh sáchhơn
160 nghiên cứu khoa
học cho thấy điều này.
-Miễn
dịch tự nhiên hiệu quả hơn bất cứ loại vaccine covid nào. Đó là SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHỐI CÃI.
-Chưa
cần xem xét mức độ hiệu quả/ nguy cơ của vaccine, chỉ riêng việc nguy cơ tử
vong rất thấp ở người dưới 50, đặc biệt là gần như bằng 0 ở người dưới
18 tuổi, thì chính sách tiêm vaccine cho những đối tượng này đã là SAI TRÁI!
2) HÀNG TRĂM nghiên cứu khoa học xác định Khẩu trang KHÔNG hiệu
quả trong việc giảm lây lan covid.
a) Về lý thuyết:
Việc
khẩu trang không ngăn được virus đường hô hấp đã được biết từ sớm, trước dịch
lẫn đầu dịch:
-Bài
báo “Thứ trưởng Bộ Y tế: Không nhất thiết phải đeo khẩu
trang y tế phòng virus corona” ngày 05/02/2020 viết như sau: “"Qua các con đường lây truyền virus corona đã được xác định, Tổ
chức Y tế thế giới cũng đã cho rằng khẩu trang y tế không có lợitrong việc phòng chống virus corona.
Vì thế, người dân không nhất thiết phải đeo khẩu trang", Thứ trưởng Bộ Y
tế Nguyễn Thanh Long nói trong cuộc họp báo chiều 5/2.”
-Bài
báo đó là chứng cứ quan trọng, xảy ra trước khi có sự “đổi trắng thành đen”,
thao túng thông tin và nói rằng khẩu trang có tác dụng!
Có
lý do đơn giản dễ hiểu khiến nó không có tác dụng ngăn chặn dịch covid:
-Một
là về cơ bản, khẩu trang có tác dụng ngăn chặn bụi và vi khuẩn; nhưng SARS-CoV-2
KHÔNG phải vi khuẩn hay bụi, mà là VIRUS.
-Virus có kích thước quá nhỏ, vì vậy khẩu trang vô dụng với virus. (Các
loại mặt nạ N95 có khả năng có một chút tác dụng, nhưng hoàn toàn KHÔNG THỂ sử dụng liên tục trong đời sống hàng
ngày vì cản trở hô hấp.)
oKích
thước của virus SARS-CoV-2 là khoảng 70-90 nanomet,
tức là chỉ 0,07-0,09 micromet, khi lây ở dạng bụi khí (aerosol) thì vào khoảng 0,25-0,5 micromet
đến tối đa là
5 micromet và giọt bắn (droplet) là >5 micromet. Kích thước của các
lỗ li ti của khẩu trang y tế và khẩu trang vải loại tốt lần lượt vào khoảng 20-70 micromet
và 20-100 micromet(khẩu trang vải kém chất lượng có thể lên tới 500 micromet).
Điều này có nghĩa là các
lỗ hở trong khẩu trang lớn gấp 200-1000 lần con virus, và gấp 10-100 lần các hạt
bụi khí mang virus!
oKích
thước virus so với các lỗ bên trong khẩu trang vải:
oKích
thước virus so với các lỗ bên trong khẩu trang y tế:
oSự “logic”
của việc dùng khẩu trang chặn virus giống việc dùng lưới B40 chặn muỗi:
-Và đây
mới là thứ có tác dụng ngăn chặn virus: (trừ khi mỗi người được phát thứ này để dùng hàng ngày, nếu không thì mọi khẩu trang đều là vô dụng)
b) Nghiên cứu khoa học chứng minh:
Năm
2010-2014, chính phủ Anh đã tổ chức xem xét 7841 nghiên cứu, và công bố báo cáo “The Use of Facemasks and Respirators during an
Influenza Pandemic”
kết luận rằng KHÔNG có
nghiên cứu nào (trong
cả 7841 nghiên cứu) có thể xác định rằng khẩu trang có tác dụng bảo vệ với
cúm.
- Báo cáo cũng xác định: Trong 7.841 nghiên cứu đó, rất nhiều nghiên cứu nhận định rằng khẩu trang có hiệu quả, nhưng hầu hết là thiên lệch, hay phương
pháp nghiên cứu có lỗ hổng, hay số mẫu quá nhỏ… (nói thẳng thừng thì là nghiên cứu 'dỏm' dùng để bán khẩu trang)
-Nghiên
cứu này xác nhận 1 sự thật (khoa học lẫn lịch sử) là: khẩu trang chưa bao giờ có tác dụng ngăn
chặn bệnh lây qua đường hô hấp.
-Báo
cáo trên thực hiện đối với các nghiên cứu về khẩu trang và bệnh cúm, không phải covid, nhưng tham khảo được, vì tính
chất tương tự (covid cũng là bệnh đường hô hấp lây qua không khí như
cúm). Và điều quan trọng là: báo cáo này thực hiện trước khi có covid, trước
khi có sự dối trá và thao túng thông tin diện rộng ngày nay!
Ta
có hàng trăm nghiên cứu cho thấy khẩu trang vô dụng trong việc ngăn chặn covid
và còn gây hại:
-Tháng
12/2021, Ts. Paul Elias Alexander đăng bài viết “More than 150 Comparative Studies and Articles on Mask
Ineffectiveness and Harms” liệt kê 150
nghiên cứu/ bài báo khoa học về sự vô dụng (trong việc chống virus đường hô hấp và
covid) và tác hại của khẩu trang. Các nghiên cứu đều có tựa đề, tác giả
và đường link cụ thể.
-(chi
tiết các tác hại khẩu trang về gây bệnh hô hấp, tâm sinh lý… tham khảo thêm Phụ lục 5 bài 39.)
Và cũng tương tự câu chuyện về miễn dịch tự nhiên, Sự thật trên đã bị che giấu, bóp méo… để thúc đẩy chính sách đeo
khẩu trang trong dân chúng, nhằm phục vụ những mục tiêu nào đó.
Cochrane là hệ thống cơ sở dữ liệu nghiên cứu y khoa hàng đầu
(nếu không phải là số 1) thế giới, là nơi phân tích các
nghiên cứu và bằng chứng khoa học nhằm đưa ra các thông tin để thực hành y tế trong nhiều thập kỷ qua.
-Báo
cáo thực hiện xem xét dữ liệu từ 12 thử nghiệm có đối chứng về khẩu trang và
mặt nạ N95.
-Báo
cáo kết luận: khẩu trang vải/ y tế không có hiệu quả; hiệu quả của mặt nạ N95 không rõ ràng; các thử nghiệm hiếm khi xem xét/ ghi nhận tác hại của khẩu trang!
(Báo cáo nghiên cứu này cũng xác định: việc rửa tay chỉ có 11%
hiệu quả trong việc giảm covid.)
c) Kết luận:
-Khẩu
trang chỉ có tác dụng giảm bụi và vi khuẩn.
-Hàng
ngàn nghiên cứu với cúm, và hàng chục nghiên cứu với Covid đã xác định: khẩu trang không có tác dụng giảm lây
lan các loại VIRUS đường hô hấp này, và còn gây hại.
Về
giãn cách xã hội (2 mét), có 1 lý do cơ bản khiến nó không có hiệu quả giảm lây
lan covid:
-Đó
là việc đây là 1 virus đường hô hấp LÂY QUA KHÔNG KHÍ (aerosol/ airborne), mà lúc đầu dịch,
người ta đã dối trá phủ nhận điều này, và nói rằng nó chỉ lây qua giọt
bắn (droplet).
-Giãn
cách xã hội chỉ có thể hiệu quả phần nào nếu virus chỉ lây qua giọt bắn và tự
rơi xuống đất, nhưng đó chỉ là tưởng tượng. Và hiện tại, không còn ai dám nói
virus này chỉ lây qua giọt bắn nữa, và người ta lờ đi sự thật rằng lúc đầu dịch
đã có 1 sự dối trá trên diện rộng về vấn đề này!
-Giãn
cách xã hội với khoảng cách 1-2m KHÔNG THỂ có hiệu quả ngay cả khi toàn bộ dân số thực hiện đúng điều đó mỗi ngày, chứ
đừng nói đó vốn là chuyện không tưởng.
4) Kết luận:
-Miễn
dịch tự nhiên hiệu
quả và bền vững hơn miễn dịch do vaccine tạo ra. Sự bác bỏ/ xuyên tạc miễn dịch tự nhiên
vào đầu dịch là nhằm thúc đẩy tiêm vaccine. Và chính sách tiêm vaccine ở người
trẻ tuổi là SAI TRÁI ngay cả nếu vaccine an toàn và hiệu quả
(thực tế thì là không).
-Khẩu
trang KHÔNG có hiệu quả
chống virus (chỉ có hiệu quả giảm bụi/ vi khuẩn). Chính sách khẩu trang trong dịch
covid là PHẢN KHOA HỌC. (và gây tăng nguy cơ bệnh hô hấp do
vi khuẩn, nấm mốc trong khẩu trang gây ra)
-Giãn
cách xã hội KHÔNG có hiệu
quả trong chống dịch covid. Chính sách giãn cách xã hội trong dịch covid là PHẢN KHOA HỌC. (và gây thiệt hại kinh tế, tâm lý, đời
sống)
Đại
dịch COVID-19 là một trong nhữngsự kiện
bệnh truyền nhiễm bị thao túng nhiều nhất trong lịch sử, với một dòng chảy không hồi kết những lời
dối trá chính thống được dẫn dắt
bởi các cơ quan chính phủ, hiệp hội y tế, hội đồng y tế, giới truyền thông và
các cơ quan quốc tế.
Bài
báo chỉ ra những sự thật và sự gian dối tràn lan trong dịch covid, và đây là một
bài báo khoa học, được đăng trên một tạp chí khoa học chính thống, và không
phải thuyết âm mưu như truyền thông thường đơm đặt.
Dưới
đây là bản dịch của bài báo khoa học trên. (Các luận điểm được tác giả đánh
số thứ tự, độc giả cần tham khảo nguồn có thể kéo xuống dưới phần NGUỒN DẪN CHỨNG ở cuối bài viết để xem.)
Đại dịch COVID-19 là một trong những sự kiện bệnh
truyền nhiễm bị thao túng nhiều nhất trong lịch sử, với một dòng chảy không hồi
kết những lời dối trá chính thống được dẫn dắt bởi các cơ quan chính phủ, hiệp
hội y tế, hội đồng y tế, giới truyền thông và các cơ quan quốc tế.[ 3 , 6 , 57
] Chúng ta đã chứng kiến một danh sách dài các vụ xâm phạm chưa từng có vào tác
nghiệp y tế, bao gồm việc công kích các chuyên gia y tế, hủy hoại sự nghiệp y tế
của các bác sĩ từ chối tham gia giết bệnh nhân của họ, và một tổ chức chăm sóc
sức khỏe quy mô lớn với những cá nhân đứng đầu không đủ tiêu chuẩn có khối tài
sản kếch xù, quyền lực và ảnh hưởng.
Lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, một tổng thống,
những thống đốc, thị trưởng, quản lý bệnh viện và quan chức liên bang đang xác
định các phương pháp điều trị y tế không dựa trên thông tin chính xác dựa trên
cơ sở khoa học hoặc thậm chí là kinh nghiệm, mà là ép buộc chấp nhận các hình
thức chăm sóc và “phòng ngừa” đặc biệt - bao gồm Remdesivir, sử dụng mặt nạ
phòng độc và cuối cùng là một loạt vắc-xin mRNA về cơ bản chưa được kiểm chứng. Lần đầu tiên trong lịch sử điều trị y tế, các phác đồ không được xây
dựng dựa trên kinh nghiệm của các bác sĩ đã điều trị thành công cho số lượng
bệnh nhân lớn nhất, mà dựa trên những cá nhân và bộ máy quan liêu chưa bao giờ
điều trị cho một bệnh nhân nào—bao gồm Anthony Fauci, Bill Gates, EcoHealth
Alliance, CDC, WHO, các quan chức y tế công cộng của tiểu bang và quản lý bệnh
viện.[ 23 , 38 ]
Giới truyền thông (TV, báo, tạp chí, v.v.), các hiệp
hội y tế, hội đồng y tế nhà nước và chủ sở hữu phương tiện truyền thông xã hội
đã tự phong cho mình là nguồn thông tin duy nhất liên quan đến cái gọi là “đại
dịch” này. Các trang web đã bị xóa, các bác sĩ lâm sàng có uy tín và kinh
nghiệm cao cũng như các chuyên gia khoa học trong lĩnh vực bệnh truyền nhiễm đã
bị bôi nhọ nghiêm trọng, sự nghiệp bị hủy hoại và tất cả các thông tin bất đồng
đều bị dán nhãn “thông tin sai lệch” và “dối trá nguy hiểm”, ngay cả khi xuất
phát từ những chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực virus học, bệnh truyền
nhiễm, chăm sóc phổi, và dịch tễ học. Sự xóa trắng thông tin đúng sự thật này
xảy ra ngay cả khi những thông tin này được bảo chứng bởi một lượng lớn trích
dẫn khoa học từ một số chuyên gia y tế có trình độ cao nhất trên thế giới.[ 23
] Đáng kinh ngạc là, ngay cả những cá nhân, chẳng hạn như Bác sĩ Michael
Yeadon, cựu Chánh Khoa học gia đã nghỉ hưu, từng là Phó chủ tịch mảng khoa học
của Công ty dược Pfizer ở Anh, khi tố cáo công ty này sản xuất một loại vắc-xin
cực kỳ nguy hiểm, lại bị phớt lờ và bôi nhọ. Hơn thế nữa, ông cùng với nhiều
nhà khoa học có trình độ cao khác đã tuyên bố rằng không ai nên tiêm loại
vắc-xin này.
Bác sĩ Peter McCullough, một trong những chuyên gia
được trích dẫn nhiều nhất thế giới trong lĩnh vực của mình, người đã điều trị
thành công cho hơn 2000 bệnh nhân COVID bằng cách sử dụng một phác đồ điều trị
sớm (mà những người được gọi là chuyên gia lại hoàn toàn phớt lờ), đã là nạn nhân
của một cuộc tấn công đặc biệt dữ dội bởi những người nhận lợi ích tài chính từ
vắc-xin. Ông đã công bố kết quả nghiên cứu của mình trên các tạp chí chuyên
ngành, báo cáo tỷ lệ nhập viện giảm 80% và tỷ lệ tử vong giảm 75% bằng cách sử
dụng phương pháp điều trị sớm.[ 44 ] Mặc dù vậy, ông đang phải chịu một loạt
những tấn công không ngừng nghỉ của những người kiểm soát thông tin, mà không
ai trong số những người này đã điều trị cho một bệnh nhân nào.
Anthony Fauci, CDC, WHO hay bất kỳ cơ sở y tế chính
phủ nào cũng chưa từng đưa ra bất kỳ phương pháp điều trị sớm nào ngoài
Tylenol, bù nước và gọi xe cấp cứu khi bạn khó thở. Đây là điều chưa từng có
trong toàn bộ lịch sử chăm sóc y tế vì việc điều trị sớm các bệnh truyền nhiễm
là rất quan trọng để cứu sống và ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng. Không
những các tổ chức y tế và chó săn liên bang này không đề nghị điều trị sớm, mà
họ còn công kích bất kỳ ai cố gắng bắt đầu điều trị như vậy bằng tất cả các vũ
khí mà họ có - tước giấy phép, tước bỏ các đặc quyền bệnh viện, sỉ nhục, hủy
hoại danh tiếng và thậm chí bắt giữ. [ 2 ]
Một ví dụ điển hình về sự chống lại quyền tự do ngôn
luận và cung cấp thông tin cho sự đồng ý có hiểu biết là việc hội đồng y tế ở
Maine gần đây đã đình chỉ giấy phép y tế của Bác sĩ Meryl Nass và yêu cầu bà
phải trải qua một cuộc đánh giá tâm thần vì đã kê đơn Ivermectin và chia sẻ
kiến thức chuyên môn của bà ấy trong lĩnh vực này.[ 9 , 65 ] Tôi biết cá nhân
Bác sĩ Nass và có thể đảm bảo cho sự chính trực, tài giỏi và trung thực của bà
ấy. Thành tích khoa học của bà là hoàn hảo không tì vết. Hành vi này của một hội đồng cấp
phép y tế làm gợi nhớ đến phương pháp của mật vụ KGB của Liên Xô trong thời kỳ
những người bất đồng chính kiến bị tống vào trại tâm thần để bịt miệng sự bất
đồng đó.
NHỮNG TẤN CÔNG CHƯA TỪNG CÓ KHÁC
Một chiến thuật chưa từng có khác là loại bỏ các bác
sĩ bất đồng chính kiến khỏi vị trí biên tập viên tạp chí (khoa học), người đánh
giá, và rút lại các bài báo khoa học của họ khỏi các tạp chí, ngay cả sau khi
các bài báo này đã được in. Cho đến khi xảy ra đại dịch này, tôi chưa từng thấy
nhiều bài báo bị rút lại như vậy— phần lớn ủng hộ các giải pháp thay thế cho
giáo điều chính thức, và đặc biệt là các bài báo đặt câu hỏi về tính an toàn
của vắc-xin. Thông thường, một bài báo hoặc nghiên cứu đã nộp được xem xét bởi
các chuyên gia trong cùng lĩnh vực, được gọi là bình duyệt (đánh giá ngang
hàng). Những đánh giá này có thể khá gay gắt và chi ly, nhấn mạnh rằng tất cả
các lỗi trong bài báo phải được sửa trước khi xuất bản. Vì vậy, trừ khi gian lận
hoặc một số vấn đề tiềm ẩn lớn khác được phát hiện sau khi bài báo được in, bài
báo vẫn là một tài liệu khoa học.
Chúng ta đang chứng kiến ngày càng nhiều bài báo khoa
học xuất sắc, được viết bởi các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, bị rút
khỏi các tạp chí khoa học và y tế lớn hàng tuần, hàng tháng và thậm chí hàng
năm sau khi xuất bản. Một đánh giá cẩn thận chỉ ra rằng trong rất nhiều trường
hợp, các tác giả đã dám đặt câu hỏi về giáo điều đã được chấp nhận bởi những
người kiểm soát các ấn phẩm khoa học—đặc biệt là liên quan đến tính an toàn,
phương pháp điều trị thay thế hoặc hiệu quả của vắc-xin.[ 12 , 63 ] Các tạp chí khoa học này dựa vào quảng cáo rộng rãi của các công ty dược phẩm để có doanh thu. Một
số trường hợp đã xảy ra khi các công ty dược phẩm hùng mạnh gây ảnh hưởng của
họ đối với chủ sở hữu của các tạp chí này để xóa các bài báo nghi ngờ sản phẩm
của các công ty này theo bất kỳ cách nào.[ 13 , 34 , 35 ]
Tệ hơn nữa là việc thiết kế thực tế các bài báo y tế
để quảng bá thuốc và dược phẩm liên quan đến các nghiên cứu giả mạo, được gọi
là bài viết ma.[ 49 , 64 ] Richard Horton được Guardian trích dẫn nói rằng “các
tạp chí khoa học đã biến thành hoạt động rửa thông tin cho ngành dược phẩm.”[ 13 , 63 ]
Các “bài báo ma" lừa đảo được tài trợ bởi các đại gia dược phẩm đã xuất
hiện thường xuyên trên các tạp chí lâm sàng hàng đầu, chẳng hạn như JAMA và Tạp
chí Y khoa New England (NEMJ)—không bao giờ bị xóa mặc dù đã bị chứng minh là
bóp méo và thao túng dữ liệu khoa học.[ 49 , 63 ]
Các bài báo ma liên quan đến việc sử dụng các công ty
có nhiệm vụ thiết kế các bài báo chứa dữ liệu bị thao túng để hỗ trợ một sản
phẩm dược phẩm và sau đó các bài báo này được các tạp chí lâm sàng có điểm tác
động cao chấp nhận, đây là các tạp chí có nhiều khả năng ảnh hưởng nhất đến việc
ra quyết định lâm sàng của các bác sĩ. Thêm vào đó, họ cung cấp cho các bác sĩ
trong thực hành lâm sàng các bản in lại miễn phí của các bài báo bị thao túng
này. The Guardian đã tìm thấy 250 công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh
viết bài ma này. Bước cuối cùng trong việc thiết kế các bài báo này để xuất bản
trên các tạp chí uy tín nhất là tuyển dụng các chuyên gia y tế được công nhận
từ các tổ chức uy tín, để thêm tên của họ vào các bài báo này.[ 11 ]
Điều cực kỳ quan trọng là các chuyên gia trong lĩnh
vực xuất bản y tế quan sát thấy rằng không có gì được thực hiện để ngăn chặn sự
lạm dụng này. Các nhà đạo đức y tế đã than thở rằng vì sự dối trá phổ biến này
“bạn không thể tin tưởng vào bất cứ điều gì.” Trong khi một số tạp chí nhấn
mạnh vào việc vạch trần thông tin, hầu hết các bác sĩ đọc các bài báo này đều
bỏ qua thông tin này hoặc bào chữa cho nó và một số tạp chí khiến việc vạch
trần trở nên khó khăn hơn bằng cách khiến cho người đọc phải tìm kiếm các tiết
lộ ở một nơi khác. Nhiều tạp chí không kiểm soát những tuyên bố như vậy và việc
các tác giả bỏ sót là phổ biến và không bị trừng phạt.
Liên quan đến thông tin được cung cấp cho công chúng,
hầu như tất cả các phương tiện truyền thông đều nằm dưới sự kiểm soát của những
gã khổng lồ dược phẩm này hoặc những người đang hưởng lợi từ “đại dịch” này.
Những câu chuyện của họ đều giống nhau, cả về nội dung và thậm chí cả từ ngữ.
Các vụ che đậy có sắp đặt xảy ra hàng ngày và dữ liệu khổng lồ phơi bày những
điều dối trá do những người kiểm soát thông tin này tạo ra đã bị giấu khỏi công
chúng. Tất cả dữ liệu đến từ các phương tiện truyền thông quốc gia (TV, báo và
tạp chí), cũng như tin tức địa phương bạn xem hàng ngày, chỉ đến từ các nguồn
“chính thức”—hầu hết trong số đó là dối trá, xuyên tạc hoặc hoàn toàn bịa
đặt—tất cả nhằm đánh lừa công chúng.
Các phương tiện truyền hình nhận được phần lớn ngân
sách quảng cáo từ các công ty dược phẩm quốc tế—điều này tạo ra một ảnh hưởng
không thể cưỡng lại để đưa tin về tất cả các nghiên cứu được nhào nặn về
vắc-xin của họ và cái gọi là các phương pháp điều trị.[ 14 ] Chỉ riêng trong
năm 2020, ngành công nghiệp dược phẩm đã chi 6,56 tỷ đô la cho quảng cáo như
vậy.[ 13 , 14 ] Quảng cáo dược trên TV lên tới 4,58 tỷ USD, chiếm 75% ngân sách
của họ. Điều đó mua rất nhiều ảnh hưởng và kiểm soát các phương tiện truyền
thông. Các chuyên gia nổi tiếng thế giới trong tất cả các lĩnh vực về bệnh
truyền nhiễm đều bị loại trừ khỏi các phương tiện truyền thông và mạng xã hội
nếu theo bất kỳ cách nào họ đi ngược lại những lời dối trá và xuyên tạc do các
nhà sản xuất vắc-xin này dàn dựng. Ngoài ra, các công ty dược phẩm này chi hàng
chục triệu USD cho quảng cáo trên mạng xã hội, trong đó Pfizer dẫn đầu với 55
triệu USD vào năm 2020.[ 14 ]
(Tham
khảo thêm bài
46, mục ngày 08/01, để thấy rằng không chỉ các hãng dược, mà chính CP Mỹ
đã tham gia vào việc vung số tiền khổng lồ hơn 1 tỉ USDchỉ để thuê hàng ngàn kênh truyền thông quảng cáo/
tuyên truyền cho vaccine covid(có
danh sách chi tiết), một loại vaccine thương mại của các hãng dược tư nhân, chưa
được thử nghiệm kỹ lưỡng!)
Mặc dù những cuộc tấn công vào quyền tự do ngôn luận
này đã đủ đáng sợ, nhưng điều còn tồi tệ hơn nữa là việc các nhà quản lý bệnh
viện kiểm soát gần như toàn cầu đã làm với chăm sóc y tế trong bệnh viện. Những
người làm thuê này hiện đang chỉ đạo các bác sĩ những phác đồ điều trị mà họ
phải tuân thủ và những phương pháp điều trị nào họ sẽ không sử dụng, bất kể
phương pháp điều trị “được phê duyệt” có hại như thế nào hoặc phương pháp điều
trị “không được phê duyệt” có lợi như thế nào.[ 33 , 57 ]
Chưa bao giờ trong lịch sử y học Hoa Kỳ có chuyện các
nhà quản lý bệnh viện ra lệnh cho các bác sĩ của mình cách họ sẽ hành nghề y và
những loại thuốc họ có thể sử dụng. CDC không có thẩm quyền ra lệnh cho các
bệnh viện hoặc bác sĩ liên quan đến các phương pháp điều trị y tế. Tuy nhiên,
hầu hết các bác sĩ đều tuân thủ mà không có một chút kháng cự nào.
Đạo luật Chăm sóc liên bang đã khuyến khích thảm họa
nhân loại này bằng cách cung cấp cho tất cả các bệnh viện Hoa Kỳ tới 39.000 đô
la cho mỗi bệnh nhân ICU mà họ bắt đeo mặt nạ phòng độc, mặc dù thực tế là ngay
từ đầu, rõ ràng mặt nạ phòng độc là nguyên nhân chính gây tử vong cho những
bệnh nhân nhẹ dạ, cả tin này. Ngoài ra, các bệnh viện đã nhận được 12.000 đô la
cho mỗi bệnh nhân được đưa vào ICU (phòng chăm sóc đặc biệt)— theo ý của tôi và
những người khác, điều này lý giải cho việc tại sao tất cả các cơ quan y tế
liên bang (CDC, FDA, NIAID, NIH, v.v.) đã làm tất cả khả năng của mình để ngăn
chặn việc điều trị sớm vốn giúp giảm tử vong.[ 46 ] Việc để sức khỏe bệnh nhân
suy kiệt đến mức họ phải nhập viện, đồng nghĩa với việc tốn rất nhiều tiền cho
tất cả các bệnh viện. Ngày càng nhiều bệnh viện có nguy cơ phá sản, và nhiều
bệnh viện đã phải đóng cửa, ngay cả trước “đại dịch” này.[ 50 ] Hầu hết các
bệnh viện này hiện thuộc sở hữu của các tập đoàn quốc gia hoặc quốc tế, bao gồm
cả bệnh viện giảng dạy.[ 10 ]
Cũng rất thú vị khi lưu ý rằng với sự xuất hiện của
“đại dịch” này, chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng đột biến các chuỗi công ty
bệnh viện thu mua lại một số lượng lớn bệnh viện có rủi ro về tài chính này.[ 1
, 54 ] Người ta đã lưu ý rằng hàng tỷ đô viện trợ Covid của Liên bang đang được
các đại gia bệnh viện này dùng để mua lại những bệnh viện đang gặp khó khăn về
tài chính này, điều này càng làm gia tăng thêm sức mạnh của tập đoàn y dược gây
hạn chế sự độc lập của bác sĩ. Các bác sĩ bị trục xuất khỏi bệnh viện của họ
đang gặp khó khăn trong việc tìm nơi làm việc khác vì họ cũng có thể thuộc sở
hữu của cùng một tập đoàn khổng lồ. Hậu quả là, các chính sách bắt buộc vắc-xin
ảnh hưởng đến lượng nhân viên bệnh viện lớn hơn nhiều. Ví dụ: Hệ thống bệnh
viện Mayo Clinic đã sa thải 700 nhân viên vì họ thực hiện quyền từ chối một
loại vắc-xin thử nghiệm nguy hiểm, về cơ bản chưa được kiểm tra.[ 51 , 57 ]
Mayo Clinic đã làm điều này mặc dù thực tế là nhiều nhân viên trong số này đã
làm việc trong thời kỳ tồi tệ nhất của dịch bệnh và đang bị sa thải khi biến
thể Omicron là chủng vi rút chiếm ưu thế, có độc tính tương tự bệnh cảm lạnh
thông thường và vắc-xin không hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm bệnh.
Ngoài ra, người ta đã chứng minh rằng người không có
triệu chứng đã tiêm phòng có nồng độ virus trong mũi họng cao ngang với người
chưa được tiêm phòng. Nếu mục đích của chính sách ép buộc tiêm vắc-xin là để
ngăn chặn sự lây lan của vi-rút trong nhân viên bệnh viện và bệnh nhân, thì
chính những người được tiêm vắc-xin có nguy cơ lây truyền bệnh cao nhất chứ
không phải những người chưa được tiêm vắc-xin. Sự khác biệt là một người bị
bệnh chưa được tiêm phòng sẽ không đi làm, còn người đã được tiêm phòng không
có triệu chứng thì sẽ đi làm và lây bệnh.
Những gì chúng ta biết là các trung tâm y tế lớn,
chẳng hạn như Mayo Clinic, nhận được hàng chục triệu đô la tài trợ của NIH mỗi
năm cũng như tiền từ các nhà sản xuất dược phẩm của những loại “vắc-xin” thử
nghiệm này. Theo quan điểm của tôi, đó là sự cân nhắc thực sự thúc đẩy các
chính sách này. Nếu điều này có thể được chứng minh trước tòa án, thì những
người quản lý đưa ra các nhiệm vụ này phải bị truy tố ở mức độ tối đa của pháp
luật và bị kiện bởi tất cả các bên bị hại.
Vấn đề phá sản bệnh viện ngày càng trở nên nghiêm
trọng do quy định bắt buộc tiêm vắc-xin của bệnh viện và dẫn đến một số lượng
lớn nhân viên bệnh viện, đặc biệt là y tá, từ chối tiêm vắc-xin cưỡng bức.[ 17
, 51 ] Tất cả những chuyện này đều chưa từng xảy ra trong lịch sử chăm sóc y
tế. Các bác sĩ trong bệnh viện chịu trách nhiệm điều trị cho từng bệnh nhân của
họ và làm việc trực tiếp với những bệnh nhân này và gia đình của họ để bắt đầu
các phương pháp điều trị này. Các tổ chức bên ngoài, chẳng hạn như CDC, không
có thẩm quyền can thiệp vào các phương pháp điều trị này và làm như vậy có thể
khiến bệnh nhân mắc phải những sai sót nghiêm trọng bởi một tổ chức chưa từng
điều trị cho một bệnh nhân COVID-19 nào.
Khi đại dịch này bắt đầu, CDC đã yêu cầu các bệnh viện
tuân theo phác đồ điều trị dẫn đến cái chết của hàng trăm ngàn bệnh nhân, hầu
hết trong số họ sẽ hồi phục nếu được phép điều trị thích hợp.[ 43 , 44 ] Phần
lớn những trường hợp tử vong này có thể được ngăn chặn nếu các bác sĩ được phép
sử dụng giải pháp điều trị sớm bằng các sản phẩm như Ivermectin,
hydroxy-chloroquine và một số loại thuốc và hợp chất tự nhiên an toàn khác.
Người ta ước tính, dựa trên kết quả của các bác sĩ điều trị thành công cho
nhiều bệnh nhân mắc bệnh covid nhất, rằng trong số 800.000 người mà chúng ta
được cho biết là đã chết vì Covid, 640.000 người không chỉ có thể được cứu mà
trong nhiều trường hợp còn có thể khôi phục sức khỏe như trước khi nhiễm bệnh,
nếu như việc trị liệu sớm với các phương pháp đã chứng minh này được sử dụng.
Việc bỏ bê điều trị sớm này cấu thành tội giết người hàng loạt. Điều này có
nghĩa là chỉ 160.000 người thực sự phải chết, ít hơn nhiều so với con số chết
dưới tay của các cơ quan quan liêu, hiệp hội y tế và hội đồng y tế đã từ chối
đứng ra bảo vệ bệnh nhân của họ.[ 43 , 44 ]
Thật đáng kinh ngạc, những bác sĩ có hiểu biết này đã
bị ngăn cản cứu những người bị nhiễm Covid-19 này. Đây là một sự xấu hổ đối với
ngành y tế khi rất nhiều bác sĩ đã vô tư tuân theo các quy trình chết người do
những cơ quan kiểm soát y tế thiết lập.
Người ta cũng phải nhớ rằng sự kiện này chưa bao giờ
thỏa mãn các tiêu chí của một đại dịch. Tổ chức Y tế Thế giới đã thay đổi các
tiêu chí để biến nó thành một đại dịch.
Để đủ điều kiện trở thành đại dịch, vi-rút phải có tỷ lệ tử vong cao đối với
đại đa số mọi người, mà vi-rút này không có (với tỷ lệ sống sót là 99,98%) và
vi-rút phải không có phương pháp điều trị hiện hữu—mà vi-rút này lại có—trên
thực tế, ngày càng có nhiều phương pháp điều trị rất thành công.
Các biện pháp hà khắc được thiết lập để ngăn chặn “đại
dịch” giả tạo này chưa bao giờ được chứng minh là thành công, chẳng hạn như đeo
khẩu trang nơi công cộng, phong tỏa và giãn cách xã hội. Một số lượng nghiên
cứu được thực hiện cẩn thận trong các mùa cúm trước đã chứng minh rằng bất kỳ
loại khẩu trang nào cũng chưa bao giờ ngăn chặn được sự lây lan của vi-rút
trong cộng đồng.[ 60 ]
Trên thực tế, một số nghiên cứu rất tốt cho rằng khẩu
trang thực ra lại làm lây lan vi-rút bằng cách mang lại cho mọi người cảm giác
an toàn giả tạo và các yếu tố khác, chẳng hạn quan sát thấy rằng người ta liên
tục vi phạm kỹ thuật vô trùng bằng cách chạm vào khẩu trang của họ, tháo khẩu
trang không đúng cách và sự rò rỉ bụi khí (aerosol) chứa vi-rút ở mép khẩu
trang. Ngoài ra, khẩu trang còn được vứt bỏ ở bãi đậu xe, đường đi bộ, đặt trên
mặt bàn trong nhà hàng và cho vào túi và ví.
Trong vòng vài phút sau khi đeo khẩu trang, một số
lượng vi khuẩn gây bệnh có thể được nuôi cấy từ khẩu trang, khiến người bị suy
giảm miễn dịch có nguy cơ cao mắc bệnh viêm phổi do vi khuẩn và trẻ em bị tăng
nguy cơ mắc bệnh viêm màng não.[ 16 ] Một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại
Đại học Florida đã nuôi cấy hơn 11 loại vi khuẩn gây bệnh từ bên trong khẩu
trang mà trẻ em đeo ở trường.[ 40 ]
Người ta cũng biết rằng trẻ em hầu như không có nguy
cơ ngã bệnh hoặc lây truyền loại vi-rút này.
Ngoài ra, người ta cũng biết rằng việc đeo khẩu trang
trong hơn 4 giờ (như xảy ra ở tất cả các trường học) dẫn đến tình trạng thiếu
oxy nghiêm trọng (nồng độ oxy trong máu thấp) và chứng tăng CO2 (nồng độ CO2
cao), gây ra một số tác động có hại cho sức khỏe, bao gồm cả việc làm suy yếu
sự phát triển não bộ của trẻ.[ 4 , 72 , 52 ]
Chúng ta đã biết rằng sự phát triển của não bộ vẫn
tiếp tục kéo dài sau những năm học phổ thông. Một nghiên cứu gần đây cho thấy
trẻ em sinh ra trong “đại dịch” có chỉ số IQ thấp hơn đáng kể—nhưng hội đồng
nhà trường, hiệu trưởng và các quan chức giáo dục khác rõ ràng là không quan
tâm.[ 18 ]
CÁC CÔNG CỤ TRUYỀN BÁ GIÁO ĐIỀU
Những người thiết kế ra đại dịch này đã lường trước
được sự phản đối của công chúng và những câu hỏi đáng xấu hổ trọng yếu sẽ được
đặt ra. Để ngăn chặn điều này, những người kiểm soát đã cung cấp cho giới
truyền thông một số chiến thuật, một trong những chiến thuật được sử dụng phổ
biến nhất đã và đang là trò lừa đảo “xác minh tính xác thực” hay “kiểm tra sự
thật” (fact-check). Với mỗi sự phản biện với bằng chứng được trình bày cẩn
thận, “những người kiểm tra sự thật” của phương tiện truyền thông đã phản pháo
lại bằng cáo buộc “thông tin sai lệch” và cáo buộc “thuyết âm mưu” vô căn cứ,
mà họ gọi là “bị lật tẩy”. Chúng ta chưa bao giờ được cho biết ai là người kiểm
tra thực tế hoặc nguồn thông tin “vạch trần” của họ—chúng ta chỉ được bảo hãy
tin vào “những người kiểm tra sự thật”. Một vụ kiện gần đây được thành lập với
lời tuyên thệ rằng “những người kiểm tra sự thật” trên facebook đã sử dụng ý
kiến của chính nhân viên của họ chứ không phải các chuyên gia thực sự để kiểm
tra “sự thật”.[ 59 ] Khi các nguồn trên thực tế được tiết lộ, họ luôn là những
cơ quan thối nát CDC, WHO hoặc Anthony Fauci hoặc chỉ là ý kiến cá nhân của họ.
Dưới đây là danh sách những điều được dán nhãn là “chuyện hoang đường” và
“thông tin sai lệch” mà sau đó đã được chứng minh là đúng.
-Những
người được tiêm vắc-xin không có triệu chứng cũng lây lan vi-rút ngang với
những người bị nhiễm có triệu chứng chưa được tiêm vắc-xin.
-Vắc-xin
không thể bảo vệ đầy đủ trước các biến thể mới, chẳng hạn như Delta và Omicron.
-Miễn
dịch tự nhiên vượt trội hơn nhiều so với miễn dịch vắc-xin và rất có thể là
suốt đời.
-Khả
năng miễn dịch của vắc-xin không chỉ suy yếu sau vài tháng mà tất cả các tế bào
miễn dịch đều bị suy giảm trong thời gian dài, khiến người được tiêm vắc-xin có
nguy cơ cao mắc tất cả các bệnh nhiễm trùng và ung thư.
-Vắc-xin
COVID có thể gây ra một lượng lớn các trường hợp đông máu và các tác dụng phụ
nghiêm trọng khác.
-Những
người ủng hộ vắc-xin sẽ yêu cầu tiêm nhiều mũi tăng cường mỗi khi có biến thể
xuất hiện.
-Fauci
sẽ nhấn mạnh vào vắc-xin covid cho trẻ nhỏ và thậm chí cả trẻ sơ sinh.
-Hộ
chiếu (thẻ xanh) vắc-xin sẽ được yêu cầu để vào một doanh nghiệp, đi máy bay,
và sử dụng phương tiện giao thông công cộng.
-Sẽ
có các trại tập trung dành cho những người chưa được tiêm chủng (như ở Úc, Áo
và Canada).
-Những
người không được tiêm phòng sẽ bị từ chối tuyển dụng.
-Có
những thỏa thuận bí mật giữa chính phủ, các tổ chức tinh hoa, và các nhà sản
xuất vắc-xin.
-Nhiều
bệnh viện trống rỗng hoặc có tỷ lệ lấp đầy thấp trong đại dịch.
-Protein
gai từ vắc-xin xâm nhập vào nhân tế bào, làm thay đổi chức năng sửa chữa DNA tế
bào.
-Hàng
trăm ngàn người đã chết vì vắc-xin và nhiều người hơn nữa đã bị tổn thương vĩnh
viễn.
-Điều
trị sớm đã có thể cứu sống phần lớn của số 700.000 người đã chết.
-Viêm
cơ tim do vắc-xin (ban đầu bị chối bỏ) là một vấn đề nghiêm trọng và sẽ khỏi
sau một thời gian ngắn.
-Những
lô vắc-xin đặc biệt nguy hiểm (chết người) được trộn lẫn giữa hàng loạt vắc-xin
Covid-19 khác.
Một số tuyên bố này của những người phản đối các loại
vắc-xin này giờ đã xuất hiện trên trang web của CDC—hầu hết vẫn bị xem là
“chuyện hoang đường”. Hiện nay, một lượng lớn bằng chứng đã xác nhận rằng mỗi
điều gọi là “chuyện hoang đường” này đều là sự thật. Nhiều điều thậm chí còn
được thừa nhận bởi “thánh vắc-xin”, Anthony Fauci. Ví dụ như, chính ngài Tổng
thống suy giảm nhận thức đã nói với chúng ta rằng sau khi vắc-xin được tung ra,
tất cả những người đã tiêm chủng có thể tháo khẩu trang của họ. Ôi! Ngay sau
đó, chúng ta được thông báo—những người được tiêm vắc-xin có nồng độ (chuẩn độ)
vi-rút cao trong mũi và miệng (vòm họng) và có thể truyền vi-rút cho những
người khác mà họ tiếp xúc—đặc biệt là các thành viên trong gia đình của họ.
Tiếp tục lại phải đeo khẩu trang— trên thực tế, họ khuyên nên đeo luôn hai khẩu
trang. Ngày nay người ta biết rằng người tiêm vắc-xin chính là những người siêu
lây nhiễm, và bệnh viện có đầy những người bệnh đã tiêm vắc-xin và những người
bị tai biến do vắc-xin.[ 27 , 42 , 45 ]
Một chiến thuật khác của những người ủng hộ vắc-xin là
bôi nhọ những người từ chối tiêm vắc-xin vì nhiều lý do. Các phương tiện truyền
thông gọi những cá nhân có tư duy phản biện này là “những người chống vắc-xin”,
“những người phủ nhận vắc-xin”, “những người phản kháng vắc-xin”, “những kẻ
giết người”, “kẻ thù của điều tốt đẹp hơn” và là những kẻ kéo dài đại dịch. Tôi
đã kinh hoàng trước những cuộc tấn công ác độc, tàn nhẫn của một số người trên
mạng xã hội khi cha mẹ hoặc người thân kể lại câu chuyện về sự đau khổ khủng
khiếp và thậm chí là cái chết mà họ hoặc người thân của họ phải gánh chịu do
tiêm vắc-xin. Một số kẻ điên cuồng viết rằng họ vui mừng vì đó đã chết hoặc
người kể lại sự kiện chết do vắc-xin là kẻ thù của điều tốt đẹp và nên bị cấm.
Điều này thật khó để có thể hình dung. Mức độ nhẫn tâm này thật đáng sợ, và
biểu thị sự sụp đổ của một xã hội đạo đức, đàng hoàng, và nhân ái.
Việc công chúng chìm xuống mức thấp này đã đủ tồi tệ,
nhưng các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo chính trị, quản lý bệnh
viện, hiệp hội y tế và hội đồng cấp phép y tế cũng đang hành động theo một cách
tàn nhẫn và rối loạn về mặt đạo đức tương tự.
LOGIC, LÝ LUẬN, VÀ BẰNG CHỨNG KHOA HỌC ĐÃ BIẾN MẤT TRONG SỰ KIỆN
NÀY
Liệu những bằng chứng khoa học, nghiên cứu được thực
hiện cẩn thận, kinh nghiệm lâm sàng và logic y học đã có tác dụng gì trong việc
ngăn chặn những loại vắc-xin vô dụng và nguy hiểm này không? Hoàn toàn không! Những nỗ lực hà khắc nhằm tiêm chủng cho tất cả mọi người trên hành tinh
vẫn tiếp tục (ngoại trừ giới tinh hoa, nhân viên bưu điện, thành viên Quốc
hội và những người trong cuộc khác).[ 31 , 62 ]
Trong trường hợp tất cả các loại thuốc khác và vắc-xin
thông thường trước đây được FDA xem xét, chỉ cần có 50 người (hay ít hơn) chết
không rõ nguyên nhân, sẽ dẫn đến việc ngừng phân phối sản phẩm, như đã xảy ra
vào năm 1976 với vắc-xin cúm lợn. Với hơn 18.000 trường hợp tử vong được báo
cáo bởi hệ thống VAERS trong khoảng thời gian từ ngày 14 tháng 12 năm 2020 đến
ngày 31 tháng 12 năm 2021 cũng như 139.126 trường hợp tổn thương nghiêm trọng
(bao gồm cả tử vong) trong cùng khoảng thời gian, người ta vẫn chưa chịu dừng
chương trình vắc-xin chết người này.[ 61 ] Tệ hơn nữa, không có cuộc điều tra
nghiêm túc nào của bất kỳ cơ quan chính phủ nào để xác định lý do tại sao những
người này chết và bị tổn thương nặng và vĩnh viễn bởi những loại vắc-xin này.[
15 , 67 ] Những gì chúng ta thấy là một loạt các hành vi che đậy và trốn tránh
liên tục của các nhà sản xuất vắc-xin và những người quảng bá của họ.
Người ta không chỉ tiếp tục mà còn gia tăng cường độ
của cuộc chiến chống lại các loại thuốc và hợp chất tự nhiên rẻ tiền và rất an
toàn được tái sử dụng hiệu quả, đã được chứng minh chắc chắn là đã cứu sống
hàng triệu người trên khắp thế giới,.[ 32 , 34 , 43 ]
Các bác sĩ được thông báo rằng họ không được cung cấp
các hợp chất cứu mạng này cho bệnh nhân của mình và nếu làm như vậy, họ sẽ bị
đuổi khỏi bệnh viện, bị tước giấy phép y tế hoặc bị trừng phạt bằng nhiều hình
thức khác. Rất nhiều nhà thuốc đã từ chối kê đơn thuốc lvermectin hoặc
hydroxy-chloroquine, mặc dù thực tế là hàng triệu người đã sử dụng những loại
thuốc này một cách an toàn trong hơn 60 năm đối với trường hợp hydroxy
chloroquine và nhiều thập kỷ đối với Ivermectin.[ 33 , 36 ] Việc từ chối kê đơn
này là chưa từng có tiền lệ và đã được thiết kế bởi những người muốn ngăn chặn
các phương pháp điều trị thay thế, tất cả đều nhằm mở rộng vắc-xin đến tất cả
mọi người. Một số công ty sản xuất hydroxy chloroquine đã đồng ý bán hết thuốc
trong kho của họ bằng cách tặng chúng cho Kho dự trữ Quốc gia Chiến lược, khiến
loại thuốc này trở nên khó kiếm hơn nhiều.[ 33 ] Tại sao chính phủ lại làm điều
đó khi hơn 30 nghiên cứu được thực hiện tốt đã chỉ ra rằng loại thuốc này giúp
giảm tỷ lệ tử vong khoảng 66% đến 92% ở các quốc gia khác, chẳng hạn như Ấn Độ,
Ai Cập, Argentina, Pháp, Nigeria, Tây Ban Nha, Peru, Mexico, và những người
khác?[ 23 ]
Những người chỉ trích hai loại thuốc cứu mạng này
thường được tài trợ bởi Bill Gates và Anthony Fauci, cả hai đều kiếm được hàng
triệu USD từ những vắc-xin này.[ 48 , 15 ]
Để tiếp tục ngăn chặn việc sử dụng các loại thuốc này,
ngành công nghiệp dược phẩm và Bill Gates/ Anthony Fauci đã tài trợ cho nghiên
cứu giả mạo rằng hydroxy chloroquine là một loại thuốc nguy hiểm và có thể gây
hại cho tim.[ 34 ] Để thực hiện trường hợp lừa đảo này, các nhà nghiên cứu đã
tiêm cho những bệnh nhân mắc bệnh covid nặng nhất một liều thuốc gần như gây
chết người, với liều lượng cao hơn nhiều so với liều lượng ở bất kỳ bệnh nhân
covid nào được điều trị bởi Bác sĩ Kory, McCullough và những bác sĩ “thật” và
nhân ái khác đang thực sự điều trị cho bệnh nhân covid.[ 23 ]
Tất nhiên, các phương tiện truyền thông được kiểm soát
chặt chẽ đã nhồi nhét công chúng bằng những câu chuyện về tác dụng chết người
của hydroxy-chloroquine, với vẻ khiếp sợ và hoảng loạn giả tạo. Tất cả những
câu chuyện về sự nguy hiểm của ivermectin đã được chứng minh là sai sự thật và
một số câu chuyện vô cùng phi lý.[ 37 , 43 ]
Cuộc tấn công vào Ivermectin thậm chí còn tàn độc hơn
so với cuộc tấn công vào hydroxy-chloroquine. Tất cả những điều này, và nhiều
điều khác nữa, được ghi lại một cách tỉ mỉ trong cuốn sách mới xuất sắc của
Robert Kennedy, Jr— ‘The Real Anthony Fauci. Bill Gates, Big Pharma, và Cuộc
chiến Toàn cầu về Dân chủ và Sức khỏe Cộng đồng’.[ 32 ] Nếu bạn thực sự quan
tâm đến sự thật và tất cả những gì đã xảy ra kể từ khi sự tàn bạo này bắt đầu,
bạn không chỉ đọc mà còn phải nghiên cứu kỹ cuốn sách này. Nó có dẫn chứng đầy
đủ và bao gồm tất cả các chủ đề rất chi tiết. Đây là một thảm kịch nhân loại
được thiết kế theo tỷ lệ trong Kinh thánh bởi một số kẻ thái nhân cách ghê tởm,
nhẫn tâm nhất trong lịch sử.
Hàng triệu người đã bị giết và thương tật một cách có
chủ ý, không chỉ bởi loại vi-rút được chế tạo này mà còn bởi chính vắc-xin và
bởi các biện pháp hà khắc mà các chính phủ này sử dụng để “kiểm soát sự lây lan
của đại dịch”. Chúng ta không được bỏ qua “những cái chết vì tuyệt vọng” do
những biện pháp hà khắc này gây ra, có thể lên đến hàng trăm ngàn. Kết quả là
hàng triệu người đã chết đói ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Chỉ riêng ở Hoa
Kỳ, trong số 800.000 người chết, theo tuyên bố của các cơ quan y tế, hơn
600.000 trường hợp tử vong này là hậu quả của việc cố ý bỏ qua việc điều trị
sớm, ngăn chặn việc sử dụng các loại thuốc tái sử dụng an toàn và hiệu quả cao,
chẳng hạn như hydroxy-chloroquine và Ivermectin, đồng thời buộc phải sử dụng
các phương pháp điều trị chết người như remdesivir và sử dụng máy thở. Đây là
chưa tính tới những người đã chết vì tuyệt vọng và thiếu chăm sóc y tế do bị
phong tỏa và các biện pháp cách ly áp đặt lên các bệnh viện.
Tồi tệ hơn, sự bắt buộc tiêm với của tất cả nhân viên
bệnh viện đã khiến hàng ngàn y tá và nhân viên bệnh viện khác từ chức hoặc bị
sa thải.[ 17 , 30 , 51 ] Điều này đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng
những nhân viên y tế quan trọng này và giảm số giường ICU ở nhiều bệnh viện một
cách nguy hiểm. Ngoài ra, như đã xảy ra trong Hệ thống Y tế Quận Lewis, một hệ
thống bệnh viện chuyên khoa ở Lowville, New York, đã đóng cửa khoa sản sau khi
30 nhân viên bệnh viện từ chức vì lệnh bắt buộc tiêm vắc-xin tai hại của tiểu
bang. Điều trớ trêu trong tất cả các trường hợp từ chức này là các nhà quản lý
đã không ngần ngại chấp nhận những tổn thất nhân sự hàng loạt này mặc dù có
những lời phàn nàn về việc thiếu hụt nhân sự giữa một “cuộc khủng hoảng”. Điều
này đặc biệt khó hiểu khi chúng ta biết rằng vắc-xin không ngăn được sự lây
truyền của vi-rút và biến thể chiếm ưu thế hiện nay có độc tố rất thấp.
SỰ NGUY HIỂM CỦA VẮC-XIN NGÀY CÀNG ĐƯỢC KHOA HỌC VẠCH RÕ
Trong khi hầu hết các nhà nghiên cứu, nhà virus học,
nhà nghiên cứu bệnh truyền nhiễm và nhà dịch tễ học đều bị đe dọa phải im lặng,
thì ngày càng có nhiều cá nhân có tính chính trực cao với chuyên môn sâu rộng
đã đứng ra nói sự thật—đó là, những vắc-xin
này nguy hiểm chết người.
Hầu hết các loại vắc-xin mới phải trải qua quá trình
thử nghiệm an toàn rộng rãi trong nhiều năm trước khi được phê duyệt. Các công
nghệ mới, chẳng hạn như vắc-xin mRNA và DNA, yêu cầu tối thiểu 10 năm thử
nghiệm cẩn thận và theo dõi rộng rãi. Cái gọi là vắc-xin mới này chỉ được “thử
nghiệm” trong 2 tháng và sau đó kết quả của những thử nghiệm an toàn này đã và
đang tiếp tục được giữ bí mật. Lời khai trước Thượng nghị sĩ Ron Johnson của
một số người đã tham gia cuộc nghiên cứu 2 tháng này cho thấy rằng hầu như
không có hoạt động theo sát nào đối với những người tham gia nghiên cứu trước
khi phát hành.[ 67 ] Khiếu nại về các biến chứng đã bị phớt lờ và mặc dù Pfizer
đã hứa rằng tất cả các chi phí y tế do “vắc-xin” gây ra sẽ được Pfizer thanh
toán, nhưng những cá nhân này đã tuyên bố rằng không khoản nào được thanh toán.[
66 ] Một số chi phí y tế vượt quá 100.000 đô la.
Một ví dụ về sự gian dối của Pfizer và các nhà sản
xuất vắc-xin mRNA khác là trường hợp của Maddie de Garay, 12 tuổi, người đã
tham gia vào nghiên cứu an toàn trước khi phát hành vắc-xin của Pfizer. Tại buổi
thuyết trình của Thượng nghị sĩ Johnson với các gia đình bị thương do vắc-xin,
mẹ của em ấy kể về những cơn co giật tái phát của con mình, rằng em ấy hiện
phải ngồi xe lăn, phải ăn bằng ống và bị tổn thương não vĩnh viễn. Trong bản
đánh giá an toàn của Pfizer đã đệ trình lên FDA, tác dụng phụ duy nhất của em
ấy chỉ được liệt kê là “đau bao tử”. Mỗi người khác đã cung cấp những câu
chuyện kinh hoàng tương tự.
Người Nhật đã dùng tới một vụ kiện FOIA (Đạo luật Tự
do Thông tin) để buộc Pfizer công bố nghiên cứu phân phối sinh học bí mật của
mình. Lý do Pfizer muốn nó được giữ bí mật là vì nó chứng minh rằng Pfizer đã
nói dối công chúng và các cơ quan quản lý về số phận của các thành phần vắc-xin
được tiêm (chất mang nano lipid bao bọc mRNA). Họ tuyên bố rằng nó chỉ ở quanh
vị trí tiêm (vai), trong khi thực tế, nghiên cứu của riêng họ cho thấy nó nhanh
chóng lan ra toàn bộ cơ thể bằng đường máu trong vòng 48 giờ.
Nghiên cứu này cũng phát hiện ra rằng những chất mang
nano lipid (nano-lipid carriers) chết người này tập trung ở nồng độ rất cao
trong một số cơ quan, bao gồm cơ quan sinh sản của nam và nữ, tim, gan, tủy
xương và lá lách (một cơ quan miễn dịch quan trọng). Nồng độ cao nhất là ở
buồng trứng và tủy xương. Những chất mang nano-lipid này cũng có lắng đọng
trong não.
Bác sĩ Ryan Cole, một nhà nghiên cứu bệnh học từ Idaho
đã báo cáo về sự gia tăng đột biến bệnh ung thư tăng triển ở những người được
tiêm phòng (không được báo cáo trên các phương tiện truyền thông). Ông nhận
thấy tỷ lệ mắc bệnh ung thư tăng triển cao ở những người được tiêm phòng, đặc
biệt là khối u ác tính xâm lấn cao ở người trẻ tuổi và ung thư tử cung ở phụ
nữ.[ 26 ] Các báo cáo khác về việc kích hoạt tình trạng ung thư vốn đã được
kiểm soát trước đó cũng xuất hiện ở những bệnh nhân ung thư sau khi tiêm
chủng.[ 47 ] Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để xác nhận
những báo cáo này, nhưng những nghiên cứu như vậy khó mà được thực hiện, đặc
biệt là với những nghiên cứu được tài trợ bởi NIH.
Nồng độ cao của protein gai được tìm thấy trong buồng
trứng trong nghiên cứu phân phối sinh học rất có thể làm giảm khả năng sinh sản
ở phụ nữ trẻ, làm thay đổi kinh nguyệt và có thể khiến họ có nguy cơ mắc ung
thư buồng trứng cao hơn. Nồng độ cao trong tủy xương cũng có thể khiến người
tiêm vắc-xin có nguy cơ cao mắc bệnh bạch cầu và ung thư hạch. Nguy cơ mắc bệnh
bạch cầu hiện rất đáng lo ngại vì họ đã bắt đầu tiêm vắc-xin cho trẻ em từ 5
tuổi. Không có nghiên cứu dài hạn nào được thực hiện bởi bất kỳ nhà sản xuất
vắc-xin Covid-19 nào, đặc biệt là về nguy cơ gây ung thư. Tình trạng viêm mãn
tính có liên quan mật thiết đến sự khởi phát, phát triển và xâm lấn của ung
thư, và vắc-xin thì có kích thích gây viêm.
Các bệnh nhân ung thư được thông báo rằng họ nên tiêm
những vắc-xin chết người này. Điều này, theo tôi, là điên rồ. Các nghiên cứu
mới hơn đã chỉ ra rằng loại vắc-xin này sẽ chèn protein gai vào trong nhân của
các tế bào miễn dịch (và rất có thể là nhiều loại tế bào khác nữa) và khi ở đó,
sẽ ức chế hai enzyme sửa chữa DNA rất quan trọng là BRCA1 và 53BP1, có nhiệm vụ
sửa chữa DNA tế bào.[ 29 ] DNA hư hỏng không được sửa chữa đóng một vai trò
quan trọng trong bệnh ung thư.
Cũng có một bệnh di truyền được gọi là khô da sắc tố,
trong đó các enzym sửa chữa DNA bị khiếm khuyết. Những cá nhân xấu số này phát
triển nhiều bệnh ung thư da và hậu quả là tỷ lệ cao gây ung thư nội tạng. Ở
đây, chúng ta có một loại vắc-xin làm được điều tương tự, nhưng ở mức thấp hơn.
Một trong những enzyme sửa chữa bị lỗi do các loại
vắc-xin này gây ra có tên là BRCA1, có liên quan với sự gia tăng đáng kể tỷ lệ
mắc ung thư vú ở phụ nữ và ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới.
Cần lưu ý rằng chưa từng có nghiên cứu nào được thực
hiện đối với một số khía cạnh quan trọng của loại vắc-xin này:
-Chúng
chưa bao giờ được thử nghiệm về tác dụng lâu dài.
-Chúng
chưa bao giờ được thử nghiệm về khả năng gây bệnh tự miễn.
-Chúng
chưa bao giờ được kiểm tra hợp lý về độ an toàn trong bất kỳ giai đoạn nào của
thai kỳ.
-Không
có nghiên cứu tiếp theo nào được thực hiện trên trẻ sơ sinh của phụ nữ được
tiêm phòng.
-Không
có nghiên cứu dài hạn sau khi sinh nào với con cái của những phụ nữ được tiêm
phòng khi đang mang thai (Đặc biệt là ở các mốc phát triển thần kinh).
-Chúng
chưa bao giờ được thử nghiệm về tác động đối với một danh sách dài các tình trạng
y tế:
oBệnh
tiểu đường
oBệnh
tim
oChứng
xơ vữa động mạch
oCác
bệnh thoái hóa thần kinh
oTác
động về thần kinh
oGây
rối loạn phổ tự kỷ và tâm thần phân liệt
oChức
năng miễn dịch dài hạn
oCác
khiếm khuyết và rối loạn di truyền từ mẹ sang con
oUng
thư
oRối
loạn tự miễn dịch
Kinh nghiệm trước đây với vắc-xin cúm chứng minh rõ
ràng rằng các nghiên cứu về độ an toàn được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu và
bác sĩ lâm sàng có quan hệ với các công ty dược phẩm về cơ bản đều được thực
hiện kém hoặc được thiết kế có chủ đích để chỉ ra sự an toàn và che đậy các tác
dụng phụ cũng như biến chứng. Điều này đã được chứng minh rõ nét với các nghiên
cứu ảo đã đề cập trước đó được thiết kế để nói rằng Hydroxy Chloroquine và
Ivermectin không hiệu quả và quá nguy hiểm khi sử dụng.[ 34 , 36 , 37 ] Những
nghiên cứu giả mạo này đã dẫn đến hàng triệu người chết và những thảm họa sức
khỏe nghiêm trọng trên toàn thế giới. Như đã nêu, 80% số trường hợp tử vong là
không đáng có và có thể được ngăn chặn bằng các loại thuốc chuyển mục đích an
toàn, rẻ tiền, với lịch sử an toàn rất lâu với số hàng triệu người đã sử dụng
chúng trong nhiều thập kỷ hoặc thậm chí cả đời.[ 43 , 44 ]
Thật là mỉa mai khi những người tuyên bố rằng họ chịu
trách nhiệm bảo vệ sức khỏe của chúng ta đã phê duyệt một bộ vắc-xin được thử
nghiệm kém, mà chỉ trong vòng chưa đầy một năm sử dụng đã dẫn đến nhiều ca tử
vong hơn so với tất cả các loại vắc-xin khác cộng lại trong 30 năm qua. Lý do
của họ khi bị chất vấn là—“chúng ta phải bỏ qua một số biện pháp an toàn vì đây
là một đại dịch chết người”.[ 28 , 46 ]
Năm 1986, Tổng thống Reagan đã ký Đạo luật Quốc gia về
Tổn thương Vắc-xin Trẻ em, đạo luật này đã bảo vệ toàn diện cho các nhà sản
xuất vắc-xin dược phẩm khỏi các vụ kiện tụng về tổn thương bởi gia đình những
người bị thương do vắc-xin. Tòa án Tối cao, trong một văn bản dài 57 trang, đã
ra phán quyết có lợi cho các công ty vắc-xin, cho phép các hãng vắc-xin sản
xuất và phân phối các loại vắc-xin nguy hiểm, thường không hiệu quả, cho người
dân mà không sợ hậu quả pháp lý. Tòa án đã nhấn mạnh vào một hệ thống bồi
thường thiệt hại do vắc-xin chỉ trả một số lượng bồi thường rất nhỏ cho một số
lượng lớn các cá nhân bị tai biến nặng. Được biết, rất khó để nhận được những
bồi thường này. Theo Cơ quan Quản lý Dịch vụ và Tài nguyên Y tế, kể từ năm
1988, Chương trình Bồi thường Thương tật do Vắc-xin (VICP) đã đồng ý thanh toán
3.597 sự bồi thường cho 19.098 cá nhân bị thương tổn do vắc-xin, với tổng số
tiền là 3,8 tỷ đô la. Điều này xảy ra trước khi có vắc-xin Covid-19, thứ mà
riêng số ca tử vong đã vượt quá tất cả các ca tử vong liên quan đến tất cả các
loại vắc-xin khác cộng lại trong ba mươi năm.
Vào năm 2018, Tổng thống Trump đã ký ban hành luật
“quyền được thử” cho phép sử dụng các loại thuốc thử nghiệm và tất cả các
phương pháp điều trị phi chính thống được sử dụng trong các trường hợp y tế
nghiêm trọng. Như chúng ta đã thấy việc nhiều bệnh viện và thậm chí các tiểu
bang từ chối cho phép Ivermectin, hydroxy-chloroquine hoặc bất kỳ phương pháp
“chính thức” nào khác chưa được phê duyệt để điều trị ngay cả những trường hợp
mắc bệnh Covid-19 giai đoạn cuối, những cá nhân bất chính đó đã phớt lờ luật
này.
Kỳ lạ thay, họ đã không dùng cùng logic hoặc luật này
với Ivermectin và Hydroxy Chloroquine, cả hai đều đã được kiểm chứng an toàn kỹ
lưỡng với hơn 30 nghiên cứu lâm sàng chất lượng cao và các báo cáo tuyệt vời về
cả hiệu quả lẫn độ an toàn ở rất nhiều quốc gia . Ngoài ra, chúng cũng đã được
sử dụng trong suốt 60 năm bởi hàng triệu người, trên toàn thế giới, với một
lịch sử an toàn xuất sắc. Rõ ràng là một nhóm người rất quyền lực kết hợp với
các tập đoàn dược phẩm không muốn đại dịch kết thúc và muốn vắc-xin là lựa chọn
điều trị duy nhất. Cuốn sách của Kennedy chứng minh vấn đề với rất nhiều bằng
chứng và trích dẫn.[ 14 , 32 ]
Bác sĩ James Thorpe, một chuyên gia y tế lĩnh vực sản
phụ và thai nhi, chứng minh rằng những loại vắc-xin covoid-19 được tiêm trong
thời kỳ mang thai này dẫn đến tỷ lệ sảy thai cao gấp 50 lần so khi tiêm tất cả
các loại vắc-xin khác.[ 28 ] Khi chúng ta kiểm tra biểu đồ của anh ấy về dị tật
thai nhi, tỷ lệ dị tật thai nhi được tiêm vắc-xin Covid-19 trong thời kỳ mang
thai cao hơn 144 lần so với tất cả các loại vắc-xin khác cộng lại. Tuy nhiên, Học
viện Sản phụ khoa Hoa Kỳ và Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ lại tuyên bố loại
vắc-xin này an toàn cho tất cả các giai đoạn của thai kỳ và ở phụ nữ đang cho
con bú.
Đáng chú ý là các nhóm chuyên khoa y tế này đã nhận
được nguồn tài trợ đáng kể từ công ty dược phẩm Pfizer. Chỉ trong quý 4 năm
2010, Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ đã nhận tổng cộng 11.000 USD riêng từ công ty
Dược phẩm Pfizer.[ 70 ] Tiền tài trợ từ các khoản tài trợ của NIH cao hơn
nhiều.[ 20 ] Cách tốt nhất để mất những khoản tài trợ này là chỉ trích nguồn
tiền, sản phẩm hoặc chương trình thú cưng của họ. Peter Duesberg, vì dám đặt
câu hỏi về lý thuyết thú vị của Fauci về bệnh AIDS do vi rút HIV gây ra, đã
không còn được trao bất kỳ khoản nào trong số 30 đơn xin tài trợ mà ông đã nộp
sau khi ra mắt công chúng. Trước tập phim này, với tư cách là cơ quan có thẩm
quyền hàng đầu về retrovirus trên thế giới, ông chưa bao giờ bị NIH từ chối trợ
cấp.[ 39 ] Đây là cách hệ thống “bị hỏng” hoạt động, mặc dù phần lớn số tiền
trợ cấp đến từ tiền thuế của chúng ta.
LÔ NÓNG— NHỮNG LÔ VẮC-XIN CHẾT NGƯỜI
Một nghiên cứu mới hiện đã công bố, kết quả của nó
thật kinh hoàng.[ 25 ] Một nhà nghiên cứu tại Đại học Kingston ở London, đã
hoàn thành một phân tích sâu rộng về dữ liệu VAERs (một bộ phận của CDC thu
thập dữ liệu về biến chứng vắc-xin do người tiêm báo cáo), trong đó ông đã phân
nhóm các trường hợp tử vong được báo cáo sau khi tiêm vắc-xin theo số lô
vắc-xin của nhà sản xuất . Vắc-xin được sản xuất theo những đợt lớn gọi là lô.
Những gì ông phát hiện ra là vắc-xin được chia thành hơn 20.000 lô và cứ mỗi
200 lô thì có một lô gây tử vong rõ ràng cho bất kỳ ai nhận vắc-xin từ lô đó,
bao gồm hàng ngàn liều vắc-xin.
Ông đã kiểm tra tất cả các loại vắc-xin được sản xuất
— Pfizer, Moderna, Johnson và Johnson (Janssen), v.v. Ông phát hiện ra rằng cứ
mỗi 200 lô vắc-xin của Pfizer và các nhà sản xuất khác, một lô trong số 200 lô
đó được phát hiện là có tỷ lệ tử vong cao hơn gấp 50 lần so với vắc-xin từ các
lô khác. Các lô (lô) vắc-xin khác cũng gây tử vong và thương tật, nhưng chưa
đến mức này. Những lô thuốc chết người này lẽ ra phải xuất hiện ngẫu nhiên
trong số tất cả các loại “vắc-xin” nếu đó là một sự kiện không chủ ý. Tuy
nhiên, ông phát hiện ra rằng có 5% số vắc-xin chịu trách nhiệm cho 90% các tác
dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm cả tử vong. Tỷ lệ tử vong và các biến chứng
nghiêm trọng trong số các “lô nóng” này dao động từ hơn 1000% đến vài ngàn phần
trăm so với các lô khác an toàn hơn. Nếu bạn nghĩ rằng đây là một sự tình cờ
thì hãy nghĩ lại. Đây không phải là lần đầu tiên các "lô nóng", theo
ý kiến của tôi, được sản xuất và gửi đi khắp cả nước một cách có chủ
đích—thường là vắc-xin được thiết kế cho trẻ em. Trong một vụ bê bối như vậy,
các “lô nóng” vắc-xin vận chuyển đến một bang và thiệt hại ngay lập tức trở nên
rõ ràng. Phản ứng của nhà sản xuất là gì? Không phải là loại bỏ các lô vắc-xin
chết người. Họ ra lệnh cho công ty mình phân tán các lô nóng trên toàn quốc để
các nhà chức trách không nhìn được rõ hiệu ứng chết người đó.
Tất cả các lô vắc-xin đều được đánh số—ví dụ: Modera
dán nhãn cho chúng bằng các mã như 013M20A. Cần lưu ý rằng các số lô kết thúc
bằng 20A hoặc 21A. Các lô kết thúc bằng 20A độc hại hơn nhiều so với các lô kết
thúc bằng 21A. Các lô kết thúc bằng 20A có khoảng 1700 sự kiện tai biến, so với
vài trăm đến 20 hoặc 30 sự kiện đối với các đợt 21A. Ví dụ này giải thích lý do
tại sao một số người gặp ít hoặc không gặp tác dụng phụ sau khi tiêm vắc-xin
trong khi những người khác bị chết hoặc bị tổn hại nghiêm trọng và vĩnh viễn.
Để xem lời giải thích của nhà nghiên cứu, hãy vào https://www.bitchute.com/video/6xIYPZBkydsu/. Theo tôi, những ví dụ này ám chỉ mạnh mẽ một sự thay
đổi có chủ ý trong quá trình sản xuất “vắc-xin” để bao gồm các lô gây chết
người.
Tôi đã gặp và làm việc với một số người quan tâm đến vấn
đề an toàn vắc-xin và tôi có thể nói với bạn rằng họ không phải là những kẻ
chống vắc-xin độc ác mà người ta vu cáo. Họ là những người có nguyên tắc cao,
có đạo đức, giàu lòng nhân ái, nhiều người trong số họ là những nhà nghiên cứu
hàng đầu và những người đã nghiên cứu sâu rộng về vấn đề này. Robert Kennedy
Jr, Barbara Lou Fisher, Bác sĩ Meryl Nass, Giáo sư Christopher Shaw, Megan
Redshaw, Bác sĩ Sherri Tenpenny, Bác sĩ Joseph Mercola, Neil Z. Miller, Tiến sĩ
Lucija Tomjinovic, Bác sĩ Stephanie Seneff, Steve Kirsch và Bác sĩ Peter
McCullough… là một vài ví dụ. Những người này không được lợi ích gì mà lại có
rất nhiều thứ để mất (khi cảnh báo vắc-xin). Họ bị tấn công dữ dội bởi các
phương tiện truyền thông, cơ quan chính phủ và các tỉ phú tinh hoa, những người
nghĩ rằng họ nên kiểm soát thế giới và mọi người trong đó.
TẠI SAO FAUCI KHÔNG MUỐN CÓ KHÁM NGHIỆM TỬ THI NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT
SAU KHI TIÊM CHỦNG?
Có nhiều điều về “đại dịch” này chưa từng có trong
lịch sử y học. Một trong những điều đáng ngạc nhiên nhất là ở đỉnh điểm của đại
dịch, có rất ít khám nghiệm tử thi được thực hiện, đặc biệt là khám nghiệm tử
thi toàn diện. Một loại vi-rút bí ẩn đã nhanh chóng lây lan khắp thế giới, một
nhóm người có hệ thống miễn dịch suy yếu đã bị bệnh nặng và nhiều người sắp
chết và cách duy nhất để chúng ta có thể nhanh chóng thu được nhiều kiến thức
nhất về loại vi-rút này—khám nghiệm tử thi, đã không được khuyến khích.
Guerriero ghi nhận rằng vào cuối tháng 4 năm 2020,
khoảng 150.000 người đã chết, nhưng chỉ có 16 ca khám nghiệm tử thi được thực
hiện và báo cáo trong y văn thế giới.[ 24 ] Trong số này, chỉ có 7 trường hợp
là khám nghiệm tử thi đầy đủ, 9 trường hợp còn lại là sinh thiết một phần hoặc
bằng kim hoặc sinh thiết rạch. Chỉ sau 170.000 ca tử vong do Covid-19 và 4
tháng sau đại dịch, loạt khám nghiệm tử thi đầu tiên mới thực sự được thực
hiện, và chỉ là hơn 10 ca. Và chỉ sau 280.000 ca tử vong và một tháng nữa, loạt
khám nghiệm tử thi quy mô lớn đầu tiên mới được thực hiện, với số lượng khoảng
80 ca.[ 22 ] Sperhake, trong một lời kêu gọi khám nghiệm tử thi được thực hiện
mà không cần hỏi, đã lưu ý rằng cuộc khám nghiệm tử thi đầy đủ đầu tiên được
báo cáo trong y văn với máy chụp ảnh vi quang học đã xuất hiện trên một tạp chí
pháp y Trung Quốc vào tháng 2 năm 2020.[ 41 , 68 ] Sperhake bày tỏ sự bối rối
về lý do tại sao có sự chần chừ không muốn thực hiện khám nghiệm tử thi trong
cuộc khủng hoảng, nhưng ông biết điều đó không phải do các nhà nghiên cứu bệnh
học. Các tài liệu y khoa tràn ngập lời kêu gọi của những nhà nghiên cứu bệnh
học về việc tiến hành khám nghiệm tử thi nhiều hơn.[ 58 ] Sperhake lưu ý thêm
rằng Viện Robert Koch (Hệ thống giám sát y tế của Đức) ít nhất ban đầu đã phản
đối khám nghiệm tử thi. Ông cũng biết rằng vào thời điểm đó có 200 tổ chức khám
nghiệm tử thi ở Mỹ đã thực hiện ít nhất 225 ca khám nghiệm tử thi ở 14 bang.
Một số người cho rằng việc thiếu khám nghiệm tử thi
này là do chính phủ lo sợ lây nhiễm cho các nhà nghiên cứu bệnh học, nhưng một
nghiên cứu về 225 ca khám nghiệm tử thi đối với các trường hợp Covid-19 chỉ cho
thấy một trường hợp nhà bệnh học nhiễm bệnh mà trường hợp này được xác định là
do lây nhiễm từ nơi khác.[ 19 ] Guerriero kết thúc bài viết của mình kêu gọi
khám nghiệm tử thi nhiều hơn với quan sát này: “Các nhà bệnh học lâm sàng và
pháp y đã kề vai sát cánh vượt qua những trở ngại trong nghiên cứu khám nghiệm
tử thi ở nạn nhân Covid-19 và từ đó tạo ra kiến thức quý giá về sinh lý bệnh
học của sự tương tác giữa SARS-CoV- 2 và cơ thể con người, do đó góp phần vào
sự hiểu biết của chúng ta về căn bệnh này.”[ 24 ]
Người ta ghi ngờ rằng việc các quốc gia trên toàn thế
giới hạn chế cho phép nghiên cứu tử thi tổng thể các nạn nhân Covid-19 có thể
không phải là ngẫu nhiên. Có ít nhất hai khả năng nổi bật. Đầu tiên, những
người dẫn dắt sự kiện “không phải đại dịch” này thành một “đại dịch chết người”
được thừa nhận trên toàn thế giới, đang che giấu một bí mật quan trọng mà khám
nghiệm tử thi có thể phát hiện ra. Cụ thể là có bao nhiêu trường hợp tử vong
thực sự là do virus gây ra? Để thực hiện các biện pháp hà khắc, chẳng hạn như
bắt buộc đeo khẩu trang, phong tỏa, phá hủy các hoạt động kinh doanh và cuối
cùng là bắt buộc tiêm chủng, họ cần một số lượng rất lớn người chết do nhiễm
covid-19. Nỗi sợ hãi sẽ là động lực cho tất cả các chương trình kiểm soát đại
dịch mang tính hủy diệt này.
Elder và cộng sự trong nghiên cứu của mình đã phân
loại kết quả khám nghiệm tử thi thành bốn nhóm.[ 22 ]
-Những
ca tử vong chắc chắn do Covid-19
-Những
ca tử vong có lẽ là do Covid-19
-Những
ca tử vong cũng có khả thể là do Covid-19
-Những
ca tử vong không liên quan đến Covid-19, mặc dù có kết quả xét nghiệm dương
tính.
Điều có thể khiến các nhà thiết kế đại dịch này lo
lắng hoặc thậm chí khiếp sợ là việc khám nghiệm tử thi có thể và đã cho thấy
rằng một lượng người trong số những người được gọi là chết do Covid-19 này thực
ra là đã chết vì các bệnh nền. Trong phần lớn các nghiên cứu khám nghiệm tử thi
được báo cáo, các nhà bệnh học đã ghi nhận nhiều tình trạng bệnh nền đi kèm,
hầu hết trong số đó ở mức độ nặng có thể gây tử vong (mà không cần kèm theo
Covid-19). Như trước đây người ta biết rằng các loại virus cảm lạnh thông
thường có tỷ lệ gây tử vong 8% trong các viện dưỡng lão.
Ngoài ra, bằng chứng có giá trị có thể thu được từ
khám nghiệm tử thi sẽ cải thiện các phương pháp điều trị lâm sàng và có thể
chứng minh tác dụng chết người của các quy trình bắt buộc của CDC mà tất cả các
bệnh viện bị bắt phải tuân theo, chẳng hạn như việc sử dụng mặt nạ phòng độc và
thứ thuốc hại thận chết người Remdesivir. Khám nghiệm tử thi cũng cho thấy các
lỗi y tế tích lũy và chất lượng chăm sóc kém, khi mà người nhà bệnh nhân trong
các phòng chăm sóc đặc biệt khỏi không thể giám sát bác sĩ chắc chắn dẫn đến
chất lượng chăm sóc kém hơn, theo báo cáo của một số y tá làm việc trong các
khu vực này.[ 53 - 55 ]
Cũng tệ hại như vậy, điều tương tự cũng đang được thực
hiện trong trường hợp tử vong do vắc-xin Covid — rất ít cuộc khám nghiệm tử thi
hoàn chỉnh được thực hiện để tìm hiểu lý do tại sao những người này chết, cho
đến gần đây. Hai nhà nghiên cứu có trình độ cao, Tiến sĩ Sucharit Bhakdi, một
nhà vi sinh học và chuyên gia có trình độ cao về bệnh truyền nhiễm, và Bác sĩ
Arne Burkhardt, một nhà nghiên cứu bệnh học có uy tín rộng rãi, từng là giáo sư
bệnh học tại một số tổ chức uy tín, gần đây đã thực hiện khám nghiệm tử thi 15
người có chết sau khi tiêm chủng. Những gì họ tìm thấy giải thích lý do tại sao
rất nhiều người đang chết và bị tổn thương nội tạng và đông máu chết người.[ 5
]
Họ xác định rằng 14 trong số 15 người đã chết do tiêm
vắc-xin chứ không phải vì các nguyên nhân khác. Bác sĩ Burkhardt, nhà nghiên
cứu bệnh học, đã quan sát thấy bằng chứng phổ biến về một cuộc tấn công miễn
dịch lên các cơ quan và mô của những người được khám nghiệm tử thi—đặc biệt là
tim của họ. Bằng chứng này bao gồm sự xâm lấn mạnh các mạch máu nhỏ với số
lượng lớn tế bào lympho, gây ra sự phá hủy tế bào trên diện rộng khi được giải
phóng. Các cơ quan khác, chẳng hạn như phổi và gan, cũng được quan sát thấy là
có tổn thương lớn. Những phát hiện này cho thấy vắc-xin đã khiến cơ thể tự tấn
công chính nó với những hậu quả chết người. Người ta có thể dễ dàng hiểu tại sao
Anthony Fauci, cũng như các quan chức y tế công cộng và tất cả những người đang
quảng cáo rầm rộ cho các loại vắc-xin này, lại công khai can ngăn việc khám
nghiệm tử thi đối với những người chết sau khi tiêm vắc-xin. Người ta cũng có
thể thấy rằng trong trường hợp vắc-xin, chưa được thử nghiệm kỹ lưỡng trước khi
được phê duyệt cho công chúng, thì ít nhất các cơ quan quản lý phải được yêu
cầu theo dõi và phân tích cẩn thận tất cả các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm
tử vong, liên quan đến các loại vắc-xin này. Cách tốt nhất để làm điều đó là
khám nghiệm tử thi tổng thể.
Mặc dù chúng ta đã biết được thông tin quan trọng từ
những cuộc khám nghiệm tử thi này, nhưng điều thực sự cần thiết là những nghiên
cứu đặc biệt về mô của những người đã chết sau khi tiêm vắc-xin để tìm sự hiện
diện của sự xâm nhập của protein gai khắp các cơ quan và mô. Đây sẽ là thông
tin quan trọng, vì sự xâm nhập như vậy sẽ dẫn đến tổn thương nghiêm trọng cho
tất cả các mô và cơ quan liên quan—đặc biệt là tim, não và hệ thống miễn dịch.
Các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh điều này. Ở những người được tiêm
vắc-xin này, nguồn gốc của các protein gai này là mRNA tạo protein gai chứa
trong chất mang nanolipid. Rõ ràng là các cơ quan chức năng y tế và các hãng
dược sản xuất “vắc-xin” không muốn những nghiên cứu then chốt này được thực
hiện vì công chúng sẽ nổi giận và yêu cầu kết thúc chương trình tiêm chủng và
truy tố những cá nhân đã che đậy chuyện này.
KẾT LUẬN
Tất cả chúng ta đang sống qua một trong những cuộc
biến đổi to lớn nhất về văn hóa, hệ thống kinh tế cũng như hệ thống chính trị
trong lịch sử quốc gia chúng ta cũng như phần còn lại của thế giới. Chúng ta đã
được cho biết rằng chúng ta sẽ không bao giờ trở lại “bình thường” và rằng một
cuộc tái thiết tuyệt vời đã được thiết kế để tạo ra một “trật tự thế giới mới”.
Tất cả điều này đã được Klaus Schwab, người đứng đầu Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF), vạch ra trong cuốn sách của ông về “Cuộc tái thiết vĩ đại”.[ 66 ] Cuốn
sách này cung cấp rất nhiều cái nhìn sâu sắc về suy nghĩ của những kẻ không
tưởng, những người tự hào tuyên bố “cuộc khủng hoảng” đại dịch này là cách họ
mở ra một thế giới mới. Trật tự thế giới mới này đã nằm trên bàn của những kẻ
thao túng tinh hoa trong hơn một thế kỷ.[ 73 , 74 ] Trong bài báo khoa học này,
tôi đã tập trung vào những tác động tàn phá mà điều này gây ra đối với hệ thống
chăm sóc y tế ở Hoa Kỳ, nhưng cũng đúng với phần lớn thế giới phương Tây. Trong
các bài báo khoa học trước, tôi đã thảo luận về sự xói mòn dần dần của chăm sóc
y tế truyền thống ở Hoa Kỳ và hệ thống này ngày càng trở nên quan liêu hóa và
tập trung như thế nào.[ 7 , 8 ] Quá trình này đang tăng tốc nhanh chóng, nhưng
theo tôi, sự xuất hiện của “đại dịch” nhân tạo này đã biến đổi hệ thống chăm
sóc sức khỏe của chúng ta chỉ trong một đêm.
Như bạn đã thấy, một loạt sự kiện chưa từng có đã diễn
ra trong hệ thống này. Ví dụ, các nhà quản lý bệnh viện đảm nhận vị trí của
những kẻ độc tài y tế, ra lệnh cho các bác sĩ tuân theo các quy trình không
phải do những người có nhiều kinh nghiệm điều trị loại vi-rút này, mà là từ một
bộ máy quan liêu y tế chưa từng điều trị cho một bệnh nhân COVID-19 nào. Ví dụ,
việc bắt buộc sử dụng mặt nạ phòng độc đối với bệnh nhân Covid-19 phòng chăm
sóc đặc biệt ICU đã được áp dụng trong tất cả các hệ thống y tế và các bác sĩ
bất đồng chính kiến đã nhanh chóng bị loại khỏi vị trí người chăm sóc của họ,
mặc dù họ đã chứng minh các phương pháp điều trị được cải tiến rõ rệt. Hơn nữa,
các bác sĩ được yêu cầu sử dụng thuốc Remdesivir bất chấp độc tính đã được
chứng minh, thiếu hiệu quả và tỷ lệ biến chứng cao. Họ được yêu cầu sử dụng các
loại thuốc làm suy giảm hô hấp và đeo khẩu trang cho mọi bệnh nhân, mặc dù bệnh
nhân bị suy hô hấp. Trong mỗi trường hợp, những người từ chối ngược đãi bệnh
nhân của họ đều bị đuổi khỏi bệnh viện và thậm chí bị tước giấy phép hành
nghề—hoặc tệ hơn.
Lần đầu tiên trong lịch sử y học hiện đại, việc điều
trị sớm cho những bệnh nhân nhiễm bệnh này đã bị bỏ qua trên toàn quốc. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc điều trị y tế sớm đã cứu sống 80% hoặc hơn số
người nhiễm bệnh, khi được các bác sĩ độc lập khởi xướng.[ 43 , 44 ] Việc điều
trị sớm đáng lẽ đã có thể cứu sống hơn 640.000 người trong suốt “đại dịch” này.
Bất chấp việc chứng minh sức mạnh của những phương pháp điều trị sớm này, các
lực lượng kiểm soát chăm sóc y tế vẫn tiếp tục chính sách phá hoại này.
Các gia đình đã không được phép gặp người thân của họ,
buộc những người bệnh nặng này phải đối mặt với cái chết một mình trong bệnh
viện. Để tăng thêm đau đớn cho vết thương này, đám tang chỉ dành cho một số
thành viên gia đình, mà họ thậm chí còn không được phép ngồi cùng nhau. Trong
khi đó, các cửa hàng lớn, chẳng hạn như Walmart và Cosco được phép hoạt động
với những hạn chế tối thiểu. Các bệnh nhân trong viện dưỡng lão cũng không được
phép có gia đình vào thăm, một lần nữa bị buộc phải chết trong cô độc. Trong
khi đó, ở một số bang, rõ rệt nhất là New York, những người già bị nhiễm bệnh
đã được chuyển từ bệnh viện vào viện dưỡng lão một cách có chủ đích, dẫn đến tỷ
lệ tử vong của những người sống trong viện dưỡng lão này rất cao. Khi bắt đầu
“đại dịch” này, hơn 50% số ca tử vong xảy ra tại các viện dưỡng lão.
Trong suốt “đại dịch” này, chúng ta đã phải hứng chịu
vô số lời dối trá, xuyên tạc và thông tin sai lệch không có hồi kết, của giới
truyền thông, các quan chức y tế công cộng, các cơ quan y tế (CDC, FDA và WHO)
và các hiệp hội y tế. Các bác sĩ, nhà khoa học và chuyên gia về điều trị bệnh
truyền nhiễm, những người đã thành lập các hiệp hội được thiết kế để phát triển
các phương pháp điều trị hiệu quả và an toàn hơn, đã thường xuyên bị phỉ báng,
quấy rối, sỉ nhục và bị tước giấy phép, mất đặc quyền bệnh viện và, trong ít
nhất một trường hợp, được yêu cầu kiểm tra tâm thần.[ 2 , 65 , 71 ]
Anthony Fauci về cơ bản đã được trao quyền kiểm soát
tuyệt đối đối với tất cả các hình thức chăm sóc y tế trong sự kiện này, bao gồm
cả việc thúc ép tất cả các bác sĩ điều trị sử dụng các loại thuốc tạo ra lợi
nhuận cho ông ta. Ông ta đã ra lệnh sử dụng khẩu trang, bất chấp trước đó đã
cười nhạo việc sử dụng khẩu trang để lọc vi-rút. Các thống đốc, thị trưởng và
nhiều doanh nghiệp đã tuân theo mệnh lệnh của ông ta mà không thắc mắc.
Các biện pháp hà khắc được sử dụng, đeo khẩu trang,
phong tỏa, xét nghiệm những người không bị nhiễm bệnh, sử dụng xét nghiệm PCR
không chính xác, dãn cách xã hội và truy vết người tiếp xúc đã được chứng minh
là ít hoặc không hiệu quả trong các đại dịch trước đó, tuy nhiên mọi nỗ lực để
từ chối các phương pháp này đều vô hiệu. Một số bang phớt lờ những mệnh lệnh hà
khắc này mà cũng có số ca nhiễm và tử vong bằng hoặc ít hơn, so với những bang
có các biện pháp được thi hành nghiêm ngặt nhất. Bất chấp những bằng chứng hoặc
minh chứng đó, các biện pháp phá hoại xã hội này vẫn không được chấm dứt. Ngay
cả khi toàn bộ các quốc gia, chẳng hạn như Thụy Điển, tránh tất cả các biện
pháp này, đã chứng minh tỷ lệ nhiễm bệnh và nhập viện cũng ngang bằng với các
quốc gia áp dụng những biện pháp nghiêm ngặt và hà khắc nhất, thì các tổ chức
kiểm soát cũng không chịu thay đổi chính sách. Các bằng chứng đã không khiến
chính sách được thay đổi.
Các chuyên gia tâm lý học về các sự kiện hủy diệt,
chẳng hạn như suy thoái kinh tế, đại thảm họa và các đại dịch trước đó đã chứng
minh rằng các biện pháp hà khắc đi kèm với cái giá rất đắt dưới dạng “những cái
chết trong tuyệt vọng” và làm gia tăng đáng kể các rối loạn tâm lý nghiêm
trọng. Tác động của các biện pháp chống dịch này đối với sự phát triển thần
kinh của trẻ em là rất thảm khốc và là không thể đảo ngược ở một mức độ lớn.
Theo thời gian, hàng chục ngàn người có thể chết vì
tổn hại này. Ngay cả khi những dự đoán này bắt đầu xuất hiện, những người kiểm
soát “đại dịch” này vẫn tiếp tục tiến lên phía trước. Các vụ tự tử gia tăng
đáng kể, béo phì gia tăng, sử dụng ma túy và rượu gia tăng, nhiều biện pháp y
tế ngày càng tồi tệ và sự gia tăng đáng sợ các chứng rối loạn tâm thần, đặc
biệt là trầm cảm và lo lắng, đã bị phớt lờ bởi các quan chức kiểm soát sự kiện
này.
Cuối cùng chúng ta biết được rằng nhiều trường hợp tử
vong là do bỏ mặc y tế. Những người mắc bệnh mãn tính, tiểu đường, ung thư,
bệnh tim mạch và bệnh thần kinh không còn được theo dõi đúng cách tại các phòng
khám và phòng mạch. Các ca phẫu thuật không khẩn cấp đã bị hoãn lại. Nhiều bệnh
nhân trong số này chọn cách chết tại nhà hơn là mạo hiểm đến bệnh viện và nhiều
người coi bệnh viện là những “ngôi nhà chết chóc”.
Hồ sơ về các ca tử vong cho thấy số ca tử vong ở những
người từ 75 tuổi trở lên đang gia tăng, chủ yếu được giải thích là do nhiễm
Covid-19, nhưng đối với những người trong độ tuổi từ 65 đến 74, số ca tử vong
đã tăng lên từ trước khi đại dịch bùng phát.[ 69 ] Trong độ tuổi từ 18 đến 65
tuổi, các hồ sơ cho thấy số ca tử vong không phải do Covid-19 đã tăng đột biến.
Một số trường hợp tử vong này được giải thích là do số ca tử vong liên quan đến
ma túy tăng mạnh, khoảng 20.000 ca so với năm 2019. Các ca tử vong liên quan
đến rượu cũng tăng đáng kể và các vụ giết người tăng gần 30% ở nhóm từ 18 đến
65 tuổi.
Người đứng đầu công ty bảo hiểm OneAmerica tuyên bố
rằng dữ liệu của họ chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong của những người từ 18 đến 64 tuổi
đã tăng 40% so với thời kỳ trước đại dịch.[ 21 ] Scott Davidson, Tổng giám đốc
của công ty, tuyên bố rằng đây là tỷ lệ tử vong cao nhất trong lịch sử ngành
bảo hiểm, nơi thu thập dữ liệu chi tiết về tỷ lệ tử vong mỗi năm. Davidson cũng
lưu ý rằng mức tăng tỷ lệ tử vong này là cao chưa từng thấy trong lịch sử thu
thập dữ liệu tử vong. Những thảm họa to lớn trước đây chỉ khiến tỷ lệ tử vong
tăng không quá 10%, 40% là điều chưa hề có.
Bác sĩ Lindsay Weaver, giám đốc y tế của Indiana,
tuyên bố rằng số ca nhập viện ở Indiana cao hơn bất kỳ thời điểm nào trong 5
năm qua. Điều này cực kỳ quan trọng vì lẽ ra vắc-xin phải làm giảm đáng kể số
ca tử vong, nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Các bệnh viện đang tràn ngập các biến
chứng vắc-xin và những người trong tình trạng nguy kịch do bỏ bê y tế do phong
tỏa và các biện pháp chống đại dịch khác.[ 46 , 56 ]
Một số lượng đáng kể những người này hiện đang bắt đầu
chết, với một sự gia tăng đột biến xảy ra sau khi vắc-xin được ra mắt. Những
lời dối trá được tuôn ra vô tận từ những người tự cho mình là nhà độc tài y tế.
Đầu tiên, chúng ta được thông báo rằng lệnh phong tỏa sẽ chỉ kéo dài hai tuần,
sau đó chúng kéo dài hơn một năm. Rồi chúng ta được thông báo rằng khẩu trang
không có tác dụng và không cần phải đeo. Điều đó đã được đảo ngược nhanh chóng.
Sau đó, chúng ta được thông báo rằng khẩu trang vải rất hiệu quả, rồi giờ thì
không và mọi người nên đeo khẩu trang N95 và trước đó họ nên đeo hai khẩu
trang. Chúng ta từng được thông báo rằng có sự thiếu hụt nghiêm trọng mặt nạ
phòng độc, sau đó chúng ta phát hiện ra rằng chúng vẫn chưa được sử dụng trong
các nhà kho và bãi rác thành phố, vẫn còn trong các thùng còn đóng gói. Chúng
ta được cho biết rằng các bệnh viện đều chứa đầy những người chưa được tiêm
chủng và sau đó phát hiện ra điều hoàn toàn ngược lại mới là đúng, trên toàn
thế giới. Chúng ta được nói rằng vắc-xin hiệu quả 95%, chỉ để sau đó phát hiện
ra rằng vắc-xin khiến hệ miễn dịch bẩm sinh bị xói mòn dần.
Khi phát hành vắc-xin, phụ nữ được thông báo rằng
vắc-xin an toàn trong tất cả các giai đoạn của thai kỳ, chỉ để biết rằng không
có bất cứ nghiên cứu nào được thực hiện về độ an toàn khi mang thai trong các
“thử nghiệm an toàn” trước khi phát hành vắc-xin. Chúng ta được thông báo rằng
việc thử nghiệm cẩn thận trên các tình nguyện viên trước khi phê duyệt khẩn cấp
EUA đã chứng minh tính an toàn tuyệt đối của vắc-xin, chỉ để biết rằng những
đối tượng không may này đã không được theo dõi, các biến chứng y tế do vắc-xin
gây ra không được chi trả và các phương tiện truyền thông đã che đậy tất cả
những điều này.[ 67 ] Chúng ta cũng được biết rằng các hãng dược sản xuất
vắc-xin đã được FDA thông báo rằng không cần thử nghiệm thêm trên động vật
(công chúng nói chung sẽ là chuột thí nghiệm.) Thật đáng kinh ngạc, chúng ta
được thông báo rằng vắc-xin mRNA mới của Pfizer đã được FDA chấp thuận, đó là
một sự lừa dối trắng trợn, vì một loại vắc-xin khác đã được phê duyệt
(Comirnaty) chứ không phải loại vắc-xin BioNTech đang được sử dụng. Vắc-xin
Comirnaty đã được phê duyệt không có sẵn ở Hoa Kỳ. Các phương tiện truyền thông
quốc gia nói với công chúng rằng vắc-xin Pfizer đã được phê duyệt và không còn
được coi là thử nghiệm, một lời nói dối trắng trợn. Những lời nói dối chết
người này vẫn tiếp tục. Đã đến lúc phải ngăn chặn sự điên rồ này và đưa những
người này ra trước công lý.
29. Jiang H,
Mei Y-F. SARS-CoV-2 spike protein impairs DNA damage repair and inhibits V(D)J
recombination in vitro. Viruses. 2021. 13: 2056. http://doi.org/10.3390/v13102056.
32. Kennedy
R,Jr. The Real Anthony Fauci. Bill Gates, Big Pharma, and the Global War on
Democracy and Public Health. Skyhorse Publishing; 2021. p. 24-29
58. Pomara
C, Li Volti G, Cappello F. Covid-19 deaths: are we sure it is pneumonia?
Please, autopsy, autopsy, autopsy!. J Clin Med. 2020. http://doi.org/10.3390/jcm9051259.
62. Roche D.
Members of Congress and their staff are exempt from Biden’s vaccine mandate,
Newsweek 9/10/21 Boston Herald Editorial Staff. Editorial: Political
elites exempt from vax mandates. Boston Herald Sept 14, 2021.
64. Saul S. Ghostwriters
used in Vioxx studies, article says. April 15, 2008 https://www.fpparchive.org/media/documents/public_policy/Ghostwriters%20Used%20in%20Vioxx%20studies_Stephanie%20Saul_Apr%2015,%202008_The%20New%20Times.pdf
[Last accessed on 2022 Feb 06].
No comments:
Post a Comment