1) SỐC: Nghiên
cứu khoa học cho thấy thuốc Paxlovid của Pfizer làm tê liệt hệ miễn dịch thu được!
Paxlovid là
tên thương mại của thuốc điều trị covid của Pfizer, một thành phần dược chất
chính trong đó là Nirmatrelvir.
Tháng
11/2022, một nghiên cứu từ các nhà khoa học Ý “Nirmatrelvir treatment blunts the development of
antiviral adaptive immune responses in SARS-CoV-2 infected mice” về Nirmatrelvir cho thấy vấn đề nguy
hiểm với thuốc Paxlovid của Pfizer:
-
Trích
dẫn: “…tác động của việc điều trị bằng nirmatrelvir đối với sự phát triển
của các đáp ứng miễn dịch đặc hiệu với SARS-CoV-2 vẫn chưa được biết đến. Ở
đây, bằng cách sử dụng mô hình chuột bị nhiễm SARS-CoV-2, chúng tôi chỉ ra rằng
việc sử dụng nirmatrelvir sớm sau khi nhiễm bệnh sẽ làm giảm sự
phát triển
(làm tê liệt) các phản ứng tế bào T và kháng thể đặc
hiệu với SARS-CoV-2.
-
Theo
đó, khi thử thách thứ cấp, những con chuột được điều trị bằng nirmatrelvir đã chuyển ít
tế bào trí nhớ B và T hơn đến phổi bị nhiễm bệnh và đến các hạch bạch huyết trung thất. Kết
hợp lại, dữ liệu nêu bật tác động tiêu cực tiềm ẩn của việc
điều trị bằng nirmatrelvir có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý lâm sàng và có thể giúp giải thích
sự tái phát về virus và/hoặc triệu chứng được báo cáo ở một số cá nhân, sau khi
kết thúc điều trị,.”
Lưu
ý rằng:
-
Dù
đây là nghiên cứu ở chuột, không có nghĩa vấn đề này không xảy ra ở người (vì
vậy người ta mới thử trên chuột trước khi thử ở người; nếu thử ở chuột không
thành công, thì càng không được thử trên người).
-
Nghiên
cứu này cho thấy rõ ràng khả năng Paxlovid CÓ
THỂ làm tê liệt (blunt) đáp ứng miễn dịch đạt được ở người bệnh. Và nghiên cứu cũng nói rõ rằng điều
này giúp lý giải hiện tượng TÁI PHÁT (rebound/ relapse) ở những người bệnh mà
được điều trị bằng Paxlovid.
-
Tham
khảo thêm một bài báo về vấn đề này (tiếng Việt).
(Hiện tượng ‘tái phát’ là ở những người dùng Paxlovid, trong đó
triệu chứng covid tạm lắng trong khoảng 5-10 ngày, nhưng lại không hết bệnh,
5-10 ngày sau thì triệu chứng quay trở lại. Đây là hiện tượng đã được
quan sát rõ ở Paxlovid, những ví dụ điển hình chính là Tổng
thống Mỹ Biden, Anthony
Fauci và Giám
đốc CDC Michelle Walensky. Chi tiết xem thêm tại mục ngày 13/5/2022 bài này.)
2) Nghiên cứu của
Oxford cho thấy Molnupiravir KHÔNG có bất cứ hiệu quả nào trong việc giảm nhập
viện hay tử vong. (mà đây là 1 loại thuốc nguy hiểm và có thể gây đột biến
gien)
Tháng
01/2023, một nghiên cứu lớn của đại học Oxford (và nhiều nhà nghiên cứu khác) “Molnupiravir plus usual care versus usual care alone
as early treatment for adults with COVID-19 at increased risk of adverse
outcomes (PANORAMIC): an open-label, platform-adaptive randomised controlled
trial” được công
bố (đã qua bình duyệt và đăng trên The Lancet).
-
Đây
là một nghiên cứu tương đối lớn, với hơn 25.000 bệnh nhân.
-
Kết
quả nghiên cứu nêu rõ: “Số lượng nhập viện hoặc tử vong được ghi nhận ở
105 (1%) trong số 12529 người tham gia trong nhóm ‘molnupiravir cộng với chăm
sóc thông thường’ so với 98 (1%) trong số 12525 (1%) trong nhóm ‘chăm sóc thông
thường’ (tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh 1·06 [95% BCI 0·81–1·41]; xác suất
vượt trội 0·33)… Không thấy sự tương tác điều trị trong bất kỳ
phân nhóm bệnh nhân nào…
-
Phân
tích thử nghiệm ngẫu nhiên lớn nhất này… cho thấy rằng việc bổ sung sớm molnupiravir vào chăm sóc thông thường không làm
giảm số lần nhập viện hoặc tử vong (thấp ở cả hai nhóm điều trị).”
-
Tham
khảo thêm một bài báo về vấn đề này (tiếng Việt).
Nghiên
cứu này cũng có nói rằng thử nghiệm (của nhà sản xuất Merck) cho thấy Molnupiravir
có hiệu quả tương đối 30% (hiệu quả tuyệt đối là 3%) thì chưa được công bố
số liệu!
-
Như
vậy, ta hoàn toàn có lý do nghi ngờ Merck đã bùa phép dữ liệu để cho ra con số
30% đó để bán thuốc.
-
Trong
khi đó, nghiên cứu của nhóm nhà khoa học Anh (từ đại học Oxford danh tiếng và
nhiều trường khác), cho thấy rõ: Molnupiravir
có hiệu quả 0%!!!
Và
nhắc lại: Molnupiravir là một loại thuốc nguy hiểm, như chính Tổng giám
đốc Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Ấn Độ, ông Balram Bhargava đã phát biểu công khai rằng Molnupiravir CÓ NHỮNG VẤN ĐỀ RẤT ĐÁNG LO NGẠI VỀ TÍNH AN TOÀN, bao gồm nguy cơ gây quái
thai, đột biến gien, tổn thương sụn và cơ. (chi tiết về các cơ chế gây đột biến có thể xem thêm tại mục
3 bài 16. Cảnh báo về Molnupiravir)
3) Bài báo của
Giáo sư Bệnh lý học Úc nói lên sự thật về việc ngăn chặn
ivermectin, hydroxychloroquine và thúc đẩy molnupiravir, Paxlovid, với nguồn
dẫn chứng cụ thể.
Trong
bài báo khoa học “Cập nhật Covid-19: Đâu là sự thật?”, Bs. Russell Blaylock đã
viết: “Chỉ riêng ở Hoa Kỳ, trong số 800.000 người chết, theo tuyên bố của
các cơ quan y tế, hơn 600.000 trường hợp tử vong này là hậu quả của việc cố ý bỏ qua việc
điều trị sớm, ngăn chặn việc sử dụng các loại thuốc tái sử dụng
an toàn và hiệu quả cao, chẳng hạn như hydroxy-chloroquine
và Ivermectin,
đồng thời buộc phải sử dụng các phương pháp điều trị chết người như remdesivir… Việc bỏ bê điều trị sớm này cấu thành
tội giết người hàng loạt.” (chi tiết xem bài 51. Sự
thật và sự dối trá về dịch Covid)
Ts. Robert Clancy, giáo sư bệnh lý học đại học y New Castle
Úc, nhà sáng chế vaccine Broncostat, huân chương Order of Australia,
thành viên Cơ sở dữ liệu chuyên gia Covid-19 của Viện hàn lâm Khoa học Úc, là
một nhà khoa học có tên tuổi.
Ngày
8/8/2022, Ts. Robert Clancy đã có bài viết “Sự ngăn chặn các phương pháp điều trị COVID-19 hữu ích” (tiếng Việt), đăng trên Quadrant.
Dịch toàn văn bài viết:
Bài viết này
so sánh hai nhóm thuốc được quảng cáo là có hiệu quả trong điều trị sớm
COVID-19: thuốc kháng vi-rút tái chế nhắm mục tiêu sao chép cụ thể và thuốc tái
sử dụng có nguồn gốc sinh học khiến các tế bào đích chống lại sự lây nhiễm
vi-rút.
Bối
cảnh: Những ai đã theo dõi loạt bài này và có lẽ
cả những người khác, sẽ nhận ra cách một “kịch bản tuyên truyền về vắcxin”
và hệ tư tưởng của nó, được thúc đẩy bởi ngành dược phẩm, đã dẫn đến việc hủy
bỏ các loại thuốc không có bằng sáng chế (hoặc có, nhưng đã hết hạn). Những
loại thuốc được tái sử dụng này (ivermectin và hydroxychloroquine) có lượng dữ liệu lớn cho thấy hiệu quả phòng ngừa và điều trị sớm
COVID-19. Sự phản đối việc sử dụng chúng là chưa từng có, phủ nhận cả khoa học lẫn thực tiễn đã được thiết lập trong mối quan hệ giữa
bác sĩ và bệnh nhân. Sự
phản đối này đe dọa việc sử dụng các loại thuốc “ngoài nhãn” thường được hầu
hết các bác sĩ kê đơn có hiệu quả. Các chính phủ cũng cấm sử dụng các loại
thuốc này để điều trị COVID-19, đe dọa và ban hành lệnh hủy giấy phép đối với
các bác sĩ phản đối kịch bản tuyên truyền và kê đơn ivermectin (IVM) hoặc
hydroxychloroquine (HCQ) để điều trị sớm nhiễm COVID-19. Cơ quan Quản lý
Sản phẩm Trị liệu (TGA), cơ quan cấp phép của Úc, đã bị phản đối khi cấm
sử dụng IVM để điều trị COVID-19, không phải vì nó không hiệu quả mà vì “nó có
thể cản trở việc tiêm phủ vắc-xin; nó có thể cạnh tranh với quyền sử dụng
của bệnh nhân bản địa cho bệnh ghẻ; và có thể có sự nhầm lẫn về chế độ
liều lượng thích hợp”. Chiến thắng này của Big Pharma là tổn thất đối với
hàng ngàn người Úc, những người đáng lẽ đã được hưởng lợi, trong đó có nhiều
người có nguy cơ nhiễm bệnh nặng.
Tệ hại hơn,
vài tuần sau Merck, một công ty đã công khai
chế nhạo IVM, sản phẩm đã
hết hạn bản quyền của chính họ, đã công bố trên trang nhất về loại thuốc “thần
kỳ” mới của họ, molnupiravir. Loại thuốc này và một loại thuốc khác,
Paxlovid của Pfizer, đã nhanh chóng được TGA chấp thuận tạm thời để sử dụng ở
Úc mặc dù bằng chứng về hiệu quả rất ít và bằng chứng về độ an toàn
còn ít hơn. Những thắng lợi này của ngành dược phẩm đã theo sau
remdesivir, một loại thuốc kháng vi-rút được dùng cho bệnh nhân nhập viện, loại
thuốc này vẫn được sử dụng mặc dù hồ sơ lâm sàng rõ ràng đáng thất vọng
và hồ sơ an toàn thậm chí còn kém hơn. Hãy nhớ rằng ba loại thuốc
này có bằng sáng chế chắc chắn và có giá hơn 1000 đô la Úc cho mỗi liệu trình. Thu
nhập hàng năm dự kiến của Pfizer là 100 tỷ đô la Mỹ, bao gồm 22 tỷ đô la Mỹ
từ Paxlovid và 32 tỷ đô la Mỹ từ vắc-xin mRNA của họ, Comirnaty, còn lớn hơn
ngân sách hàng năm của Pakistan, quốc gia đông dân thứ năm trên thế giới.
Các
loại thuốc: Hai nhóm thuốc đã được đề xuất làm
phương pháp điều trị sớm cho COVID-19. Đây là những chất chống vi-rút cụ
thể mới có gần đây, được phát triển và thử nghiệm với tác dụng thay đổi trong
các bệnh nhiễm vi-rút khác nhau. Nhóm này bao gồm molnupiravir và Paxlovid, nhằm vào
các cơ chế liên quan đến sự nhân lên và tập hợp của virus. Ngoài ra, có
những loại thuốc được tái sử dụng, bao gồm cả HCQ và IVM, cả hai loại này đều không được bảo hộ bằng sáng chế nhưng lại dễ
dàng kiếm được và không tốn kém. HCQ và IVM, với lịch sử lâu dài về
tính hiệu quả và an toàn, được lấy từ các nguồn sinh học và tác động lên nhiều
mục tiêu trong các tế bào bị nhiễm bệnh.
MOLNUPIRAVIR: Câu chuyện về molnupiravir thật bất
thường. Được Merck quảng cáo rầm rộ, các phương tiện truyền thông
chính thống đã ca ngợi nó là “thần dược cho COVID”. Chính phủ Liên bang
ngay lập tức cam kết mua 300.000 liều, với TGA ngay lập tức liệt kê
molnupiravir trong Chương trình Phúc lợi Dược phẩm (PBS) kể từ ngày 1 tháng 3
năm 2022, để điều trị sớm COVID-19 nhẹ/trung bình ở các nhóm có nguy cơ cao.
Cần biết
rằng molnupiravir không phải là một loại thuốc mới. Ở
dạng sửa đổi một chút, nó đã được lên kế hoạch thử nghiệm vào năm 2003 đối với
bệnh viêm gan C. Thử nghiệm đã bị hủy bỏ vì nguy cơ thuốc có thể gây đột biến DNA của vật chủ,
gây nguy cơ ung thư hoặc bệnh lý chuyển thế hệ. Molnupiravir hoạt động như
một nucleotide base đột biến, nó dẫn đến một "thảm họa lỗi" do các đột biến tích lũy
trong DNA của vi-rút. Trong y học, người ta biết rằng đột biến của một base
duy nhất là đủ để gây bệnh, bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm là một ví
dụ. Nguy cơ (molnupiravir)
tạo ra các đột biến virus có thể lây lan trong cộng đồng và gây đột biến DNA
của tế bào chủ đã được chứng minh, mặc dù ý nghĩa của những phát hiện này vẫn chưa rõ ràng. Dữ
liệu lâm sàng khó hiểu trong các nghiên cứu được sử dụng để đăng ký
molnupiravir không cho thấy khả năng giảm vi-rút lây bệnh tốt
hơn. Kết quả thử nghiệm trong hồ sơ trình lên FDA chỉ là một phân tích lâm
thời về một nửa số lượng người tham gia thử nghiệm. Phát hiện chính là số
lượng ca nghiêm trọng (nhập viện hoặc tử vong) ở nhóm được điều trị chỉ bằng
một nửa so với nhóm chứng giả dược. Không có sự kiện bất lợi liên quan đã
được ghi nhận. Tuy nhiên, một phân tích đầy đủ về thử nghiệm đã hoàn
thành cho thấy rằng khả năng bảo vệ đã giảm xuống còn 30%. Một
nghiên cứu riêng biệt về những người không được đưa vào phân tích lâm thời cho
thấy nhóm giả dược đã thấy ít nhập viện hơn và ít tử vong hơn so
với nhóm được điều trị trong nghiên cứu. Hai nghiên cứu thất bại
ở Ấn Độ với 2.000 đối tượng không được
đưa vào hồ sơ trình cho FDA.
Lo ngại về
tính an toàn và hiệu quả đã dẫn đến Nghiên cứu Toàn cảnh độc lập (Panoramic), được thực hiện ở Vương quốc
Anh. Hơn 20.000 đối tượng đã được tuyển dụng và phân tích đang được chờ
đợi. Pháp đã hủy đơn đặt
hàng molnupiravir và Ấn Độ từ chối đăng ký loại thuốc này vì lo ngại về độc tính. Hầu hết các
quốc gia đang chờ đợi kết quả của Nghiên cứu Toàn cảnh. Theo liên kết này đến Vụ
lừa đảo Molnupiravir vĩ đại để có thêm nguồn tham khảo và bình luận.
PAXLOVID: Paxlovid được liệt kê trên PBS với
molnupiravir vào ngày 1 tháng 3 năm 2022. Đây là loại thuốc được các bác sĩ kê
đơn lựa chọn vì những lo ngại về hiệu quả và độ an toàn của
molnupiravir. Có những tiêu chí nghiêm ngặt đối với việc sử dụng Paxlovid.
Một thành
phần của Paxlovid, nirmatrelvir, ức chế protease của virus, một loại
enzyme cắt chuỗi protein của virus do ribonuclease phụ thuộc RNA tạo ra, thành
các đơn vị protein chức năng riêng biệt. Một dược chất thứ hai, ritonavir,
ức chế cytochrom P450 pathway, chịu trách nhiệm khử hoạt tính của nhiều
loại thuốc, bao gồm cả nirmatrelvir, do đó làm tăng thời gian bán hủy của nó.
Các nghiên
cứu lâm sàng đã kết luận rằng Paxlovid làm giảm các hậu quả nghiêm trọng của
COVID-19, bao gồm nhập viện và tử vong. Một nghiên cứu ban đầu đã tuyên bố
giảm 89% tỷ lệ nhập viện và tử vong, với rất ít tác dụng phụ liên
quan. Tuy nhiên, một nghiên cứu thứ hai cho thấy Paxlovid kém hiệu quả
hơn, giảm 60% hậu quả nghiêm trọng. Mối lo ngại xuất hiện từ lúc đó.
Mối quan tâm
đầu tiên là không thấy giảm các
triệu chứng kéo dài -
đáng ngạc nhiên khi có sự bảo vệ trước các kết quả nghiêm trọng hơn.
Thứ hai là,
mặc dù giảm tải lượng vi-rút nhưng thời gian lây nhiễm ít bị ảnh hưởng
hơn. Đây là một vấn đề lâm sàng, vì khoảng 10-20% bệnh nhân được điều trị bị tái phát các triệu chứng và sự lây nhiễm. Tổng thống Biden, bị nhiễm bệnh
tái phát, là một ví dụ gần đây và được nhiều người biết đến. Một lời
giải thích có thể là Paxlovid làm giảm sự lây nhiễm mà không loại bỏ vi-rút, do
đó kéo dài thời gian để khả năng miễn dịch tự nhiên tiêu diệt vi-rút. Việc
chậm tiêu diệt (vi-rút) vì bất kỳ lý do nào có khuynh hướng gây tái phát bệnh.
Thứ ba,
Paxlovid dường như kém hiệu quả hơn ở những đối tượng đã được chủng ngừa (những
người không được đưa vào thử nghiệm lâm sàng). Điều này có thể là
do sự bài tiết virus
kéo dài ở những người được tiêm phòng. Một nghiên cứu ở Israel với 110.000 đối tượng không cho thấy lợi ích ở những người dưới
65 tuổi đã được chủng ngừa. Ở
những người trên 65 tuổi được điều trị bằng Palovid, cả những người đã được
tiêm phòng và những người không được tiêm phòng đều có lợi. Tuy nhiên, mức
độ lợi ích ít hơn ở nhóm được tiêm phòng (60% khả năng bảo vệ so với 86% ở nhóm
không được tiêm phòng). Ở những đối tượng trẻ tuổi đã tiêm chủng, những người được điều trị bằng Paxlovid có
xu hướng dẫn đến kết quả nghiêm trọng hơn so với nhóm đối chứng.
Thứ tư,
những lo ngại về độc tính vẫn còn. Ritonivir được biết là độc hại đối với gan và thận do sử dụng nó trong
nhiễm HIV. Nó
ngăn chặn P450 pathway trong gan, được sử dụng để làm bất hoạt thuốc protease
và nhiều loại thuốc khác. Mặc dù giá trị của ritonvir trong Paxlovid là
làm tăng thời gian hoạt động protease của nirmatrelvir, cơ chế tương tự gây ra
tương tác thuốc với nhiều loại thuốc chia sẻ con đường chuyển hóa
P450. Thời gian rửa trôi chậm đối với statin, được khoảng 60% người cao
tuổi dùng để kiểm soát mức cholesterol, khiến việc ngừng dùng statin để sử dụng
Paxlovid trở nên không an toàn.
Thứ năm,
trong một nghiên cứu lớn thử nghiệm điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, Paxlovid đã thất bại
trong việc bảo vệ. Mặc
dù không chắc chắn và phức tạp, nó vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi ở người
cao tuổi. Câu hỏi đặt ra là liệu nó có được tung ra quá vội vã hay không. Liên kết này bao gồm các tham chiếu đến các vấn
đề được cảnh báo liên quan đến Paxlovid.
HYDROXYCHLOROQUINE
(HCQ): Nhiều người đọc
bài viết này sẽ ngạc nhiên khi thấy HCQ được đề cập như một chất điều trị
hiệu quả cho COVID-19, vì có một quán tính quan điểm chống lại giá trị của
HCQ trong điều trị sớm hoặc phòng ngừa COVID-19, nên tôi nghi ngờ bất cứ điều
gì được viết ở đây sẽ thay đổi quan điểm này. Không có loại thuốc nào từng
bị từ chối đầy thù địch và mạnh mẽ hơn, lại dựa trên kịch bản tuyên truyền hơn
là khoa học. Các phương pháp ngụy
biện được những người
gièm pha sử dụng bao gồm từ việc xoáy vào kết quả thất bại của khi điều trị
muộn (không có liệu pháp chống vi-rút nào hiệu quả khi dùng điều trị muộn), đến
sự thiên vị trong việc công bố kết quả thử nghiệm kém hiệu quả. Tạp chí y
khoa uy tín The Lancet đã buộc phải rút lại
Nghiên cứu Surgisphere,
được trích dẫn rộng rãi bởi những người phản đối là “chứng minh” HCQ không hiệu
quả. Khi các tác giả của nghiên cứu không cung cấp thông tin chi tiết về cơ sở dữ liệu khả
nghi, thì đã có rất nhiều nghi ngờ
về hành vi gian lận trắng trợn.
Tương tự như
các sản phẩm khác có hoạt tính chống COVID-19 có nguồn gốc sinh học, HCQ có
nhiều vị trí hoạt động nội bào với tác dụng cuối cùng là giảm sự nhân lên của vi-rút. Cơ
chế của nó, là làm tăng độ pH (tức là độ kiềm) trong không bào nội bào, ảnh
hưởng đến sự phân hủy protein trong lysosome , quá trình xử lý kháng nguyên và sự
tổ hợp các đại phân tử (và các hạt vi-rút) bên trong endosome.
Bộ dữ liệu
đầy đủ về HCQ bao gồm 349 nghiên
cứu, 460.000 bệnh nhân và 5.500 tác giả và được xem xét chi tiết tại đây.
(Ghi chú:
Đến tháng 2/2023, con số này là 380 nghiên cứu, 497.000 bệnh nhân
và 8.100 nhà khoa học.)
)
Điểm nổi bật
của đánh giá toàn diện này bao gồm tầm quan trọng của việc điều trị sớm (cải
thiện 62%) so với điều trị muộn (cải thiện 19%). Với các “tiếng
ồn tiêu cực” xung quanh việc điều trị HCQ, các tác giả của phân tích tổng hợp
này đã áp dụng các tiêu chí loại trừ nghiêm ngặt để loại trừ các nghiên cứu gây
tranh cãi. Trong 33 nghiên cứu được thu nhận, có 63% cải thiện về
thước đo kết quả chính so với nhóm không dùng thuốc. Bảo vệ giảm nhập
viện là 41% và giảm tử vong 72% trong các nghiên cứu này, bao gồm
56.000 đối tượng.
Tôi chưa từng
gặp ai bày tỏ quan điểm mạnh mẽ phản đối việc sử dụng HCQ để điều trị COVID-19
có biết về cơ sở dữ liệu này, và họ thậm chí không quan tâm!
IVERMECTIN
(IVM): Sau khi chú ý ban
đầu vào HCQ, các nghiên cứu đã xuất hiện cho thấy giá trị của IVM trong điều
trị COVID-19. Nhiều cơ chế hoạt động đã được xác định. Một cơ chế
quan trọng là ngăn chặn quá trình
“kết nối” protein gai với thụ thể ACE của nó. Các cơ chế bổ sung bao gồm ức chế protease mà
Paxlovid nhắm đến, ngăn chặn quá trình vận chuyển nhân tế bào chất cần
thiết cho sự nhân lên của vi-rút và ức chế vi-rút do phản ứng
miễn dịch bẩm sinh của vật chủ và ức chế phản ứng viêm của vật chủ.
Lợi thế
chính của IVM có lẽ là sự đa dạng hóa của nó trên các mục tiêu phân tử, giúp
ngăn ngừa sự xuất hiện của các biến chủng tiến hóa của virus. Mục tiêu hẹp
của chất ức chế protease có trong Paxlovid (niratrelvir) sẽ dẫn đến sự xuất hiện của
các đột biến kháng thuốc. Đột biến vượt thoát đã được tìm
thấy với các chất ức chế protease tương tự ở HIV, một loại virus RNA khác có tỷ
lệ đột biến cao. Kết quả là các chất ức chế protease bị “lỗi thời” (mất
tác dụng) trong điều trị HIV (Int. J. Mol. Sci 23(2022)3507).
Mức độ an
toàn cao của IVM về phạm vi liều lượng được dùng điều trị COVID-19 được rút ra
từ hàng triệu bệnh nhân được điều trị các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác như
bệnh mù sông. Một lượng rất lớn dữ liệu xác nhận lợi ích lâm sàng
khi sử dụng IVM trong điều trị COVID-19 có thể thấy từ Phân tích tổng hợp thời gian thực của 88
nghiên cứu. Những
cải thiện thống kê về tỷ lệ tử vong, thông khí, nhập viện, tỷ lệ nhiễm bệnh, hồ
sơ bệnh tật và sự thanh thải vi-rút đã được ghi thành tài liệu. Do có chỉ
trích về một số nghiên cứu có khiếm khuyết về phương pháp luận, một phân
tích tổng hợp 31 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã được thực hiện sau
khi loại trừ tất cả các nghiên cứu có liên quan. Kết quả đáng kể đã được
tìm thấy cho điều trị dự phòng (84% hiệu
quả); bảo vệ sau
điều trị sớm ở mức 66%; và điều trị muộn 29%. Dữ liệu này được lấy từ nghiên cứu trên 6.967 bệnh nhân với
382 tác giả.
(Ghi chú:
Đến tháng 2/2023, cơ sở dữ liệu https://c19ivm.org/
ghi nhận tổng cộng 195 nghiên cứu
trong đó 144 đã
qua bình duyệt, 95 thử nghiệm có đối chứng do 1023 nhà khoa học tiến
hành, với 134.554 bệnh nhân, ở 27 quốc gia, cho thấy
hiệu quả từ 42-82%.
)
Một quan sát quan trọng và ấn
tượng sau liệu pháp IVM là tình trạng thiếu oxy do viêm phổi COVID đã được đảo ngược
đáng kể trong vòng 24 giờ điều trị (Hazan và cộng sự: Future Microbiol tháng 1
năm 2022: 10.2217/fmb-2022-0014). Tiến sĩ Tess Lawrie, một nhà dịch tễ học
quốc tế hàng đầu, đã mô tả cơ sở dữ liệu IVM là “dữ liệu tốt vượt trội so với mức thường được gửi để phê duyệt thuốc theo
quy định”.
IVM ngày
càng được sử dụng kết hợp với kháng sinh, để giảm thiểu tình trạng viêm
do đồng kích thích “vi-rút-vi khuẩn” và kết hợp với kẽm có độc tính với vi-rút. IVM
và HCQ hoạt động như các tế bào ion để tăng cường hấp thu kẽm. Giá trị của
việc bổ sung kháng sinh phổ rộng vào liệu pháp chống COVID-19 đã được chứng
minh ở Brazil. Ngoài việc giảm đáng kể tỷ lệ nhập viện và tử vong, người
ta ghi nhận rằng việc kết hợp azithromycin với IVM hoặc HCQ đã làm giảm các
triệu chứng sau COVID (“hậu Covid”) (p<0,0001). Quan sát quan trọng
này cần được xác nhận khẩn cấp, vì Hậu Covid đã trở thành một thách thức lớn
đối với sức khỏe, hiếm khi được giảm bớt nhờ vắc-xin (Cadegiani và cộng sự
trong “Vi khuẩn mới và các bệnh nhiễm mới” 43(2021)100915).
Cơ sở dữ
liệu cho thấy IVM an toàn và hiệu quả để kiểm soát COVID-19 vượt xa các thử nghiệm lâm sàng đã thảo
luận ở trên. Các
biện pháp y tế công ở các quốc gia, tiểu bang và khu vực khắp thế giới — bao
gồm Ấn Độ, Mexico, các khu vực của Peru và Argentina, Nhật Bản, Cộng hòa
Dominica và Brazil — đã cung cấp miễn phí IVM dưới dạng các nghiên cứu không hạn
chế, giúp giảm đáng kể và nhất quán số ca mắc COVID-19 nhiễm bệnh, nhập viện
và tử vong trong vòng vài tuần sau khi có sẵn rộng rãi. Giáo sư Philip
Morris đã biên soạn một bản tóm tắt xuất sắc về IVM trong COVID, với các tài liệu dẫn chứng.
BÌNH
LUẬN: Bài viết
này lần đầu tiên tổng hợp dữ liệu so sánh về các loại thuốc để điều trị sớm
COVID-19. Hai loại thuốc chống vi-rút, molnupiravir và Paxlovid, có sẵn
trong Chương trình Phúc lợi Dược phẩm ở Úc cho những bệnh nhân lớn tuổi có nguy
cơ cao, trong khi việc kê đơn HCQ hoặc IVM bị cấm (lưu ý rằng IVM cho COVID-19,
có thể được kê đơn bởi một số bác sĩ ở Queensland, cho đến ngày 8 tháng 4 năm 2022.
Có lẽ là một sự khởi đầu?).
Có thể thấy
tác động của “kịch bản tuyên truyền” đối với việc đánh giá các loại thuốc được
sử dụng lại, với các phản ứng khác nhau đối với các nghiên cứu IVM hiệu quả, so
với các nghiên cứu IVM thất bại. Đây là một ví dụ từ Brazil.
Đầu tiên,
một nghiên cứu liên quan đến toàn bộ dân số của thành phố Itajai cho
thấy hiệu quả liên quan đến liều dùng đối với việc sử dụng IVM dự phòng (giảm
100% số ca nhập viện, P<0,001; giảm 86% số ca tử vong,
P<0,006). Ngược lại, những người không sử dụng IVM có tỷ lệ tử vong cao
gấp bảy lần. Nghiên cứu chất
lượng cao này đã không được báo cáo trên các phương tiện truyền thông chính thống. Nó
không thu hút được bình luận nào giữa các “chuyên gia”, những người thông báo cho chúng tôi về
mọi thứ liên quan đến COVID. Nghiên cứu này có liên quan như thế nào đến
cuộc khủng hoảng hiện tại mà Úc và các hệ thống chăm sóc sức khỏe của nước này
đang phải đối mặt - người ta có thể đặt nghi vấn.
Thứ hai là
một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học New England uy tín
(NEJM) và được gọi là Thử nghiệm Together đã kiểm tra hiệu quả của
IVM trong việc ngăn ngừa các biện pháp gây hậu quả nghiêm trọng tương tự ở
những bệnh nhân đến khám tại mười phòng khám công. Người ta đã kết luận,
như đã nêu trong phần tóm tắt, rằng điều trị IVM có liên quan đến khả năng bảo
vệ không đáng kể là 11%. IVM thất bại! Tin tức này đã được báo chí
Úc đăng tải rộng rãi với tên gọi “hồi chuông báo tử cho IVM”, được củng cố bởi
các bình luận của “các chuyên gia”. Chắc chắn không có nhà phê bình nào trong đó đã đọc bài báo hoặc hiểu dữ
liệu. Nếu có, họ sẽ
lưu ý rằng hơn một nửa nhóm đối
chứng đã không hoàn thành nghiên cứu (có thể do họ không muốn dùng giả dược, với IVM có sẵn trong cộng
đồng). Khi nghiên cứu được phân tích “theo giao thức” (có nghĩa là tính
những người đã hoàn thành thử nghiệm), bảo vệ khỏi nhập viện là 60%, có ý nghĩa thống kê! (Tính toán này đã bị bỏ qua trong NEJM nhưng được thực hiện bởi hàng trăm
bác sĩ và nhà khoa học có quan tâm). Hơn 50 lỗi khác được thảo luận trong liên kết http://ivmmeta.com. Các tác giả từ chối cung cấp dữ liệu bệnh nhân và NEJM đã
không trả lời các yêu cầu cung cấp thông tin, bao gồm cả việc bỏ qua một lá
thư có chữ ký của 100 bác sĩ và nhà khoa học quốc tế cấp cao. David
Scheim (Mỹ), người khởi xướng lá thư 100 chữ ký, đã viết:
“Nếu
chúng ta cho phép thử nghiệm Together báo cáo một kết luận tiêu cực về hiệu quả
của IVM đối với COVID-19 mà không cần công bố bất kỳ kết quả quan trọng nào
hoặc bất kỳ dữ liệu cơ bản nào, thì chúng ta đã bước vào một thế giới nghiên
cứu khoa học mới đầy bất chấp, trong đó các thuốc gốc phổ thông hoàn toàn bị vô
hiệu hóa trong cuộc cạnh tranh với các loại thuốc mới được cấp bằng sáng chế.”
Nhưng thiệt
hại đã được tạo ra trong công chúng, nơi mà dường như chỉ có “kịch bản tuyên
truyền” là chính thống. Xem thêm David Scheim nói về IVM, tại video bên
dưới
(https://www.youtube.com/watch?v=vTsrNzJveGU)
Sự im lặng
thường thấy ở những người phản đối IVM đối với nghiên cứu “Cùng nhau” đầy thiếu
sót nghiêm trọng là điều hiển nhiên. Họ lên tiếng ca ngợi các thử nghiệm
đối chứng ngẫu nhiên (RCT) là tiêu chuẩn vàng để chấp thuận các loại thuốc
không được cấp bằng sáng chế được tái sử dụng (mà không thấy có bao nhiêu
nghiên cứu đang tồn tại) nhưng không bình luận về cách các công ty dược phẩm thao
túng thử nghiệm RCT để được cấp phép, sử dụng các chiến lược như loại trừ
các đối tượng không có khả năng đáp ứng (lưu ý rằng RCT của Paxlovid chỉ bao
gồm các đối tượng “chưa được chủng ngừa” mà sau đó đã được chứng minh là có
phản ứng kém, nếu có). Thất bại thử nghiệm RCT của Merck trong việc định
vị chính xác molnupiravir đã khiến chính phủ Vương quốc Anh chỉ phê duyệt “tiếp
thị có điều kiện” trong vòng một tháng kể từ khi Merck công bố phân tích tạm
thời của mình. Tạp chí Y học Anh đã đặt câu hỏi liệu việc
đăng ký có quá vội vã hay không, nhưng không có một lời nào từ những người chỉ
trích thẳng thắng “thường thấy” đối với các loại thuốc không còn bằng sáng chế
(BMJ 2022.376:0443). (http://ivmmeta.com).
Các nhà dịch
tễ học có kinh nghiệm đồng ý về tầm quan trọng của việc xem xét một loạt các
công cụ phân tích bao gồm RCT, phân tích tổng hợp, thử nghiệm quan sát với điểm
số phù hợp xu hướng và nghiên cứu dân số, đồng thời nhận ra điểm mạnh và điểm
yếu của từng phương thức. Các “kinh nghiệm bác sĩ” được công bố đã bị
bỏ quên. Nó là một trong ba nền tảng trong ý tưởng đột phá của Dave
Sackett về Thuốc dựa trên bằng
chứng. Kinh
nghiệm này được ghi lại trong 32 nghiên cứu đã được tóm tắt trong một phân tích
tổng hợp các thử nghiệm quan sát bao gồm 219.000 bệnh nhân (https://ivmmeta.com): mức bảo vệ trung bình lần lượt là 95%
và 93% đối với trường hợp nhập viện và tử vong đã được tính toán, sử dụng
đối sánh điểm xu hướng (nghĩa là sử dụng các biện pháp kiểm soát đối sánh được
xây dựng để giảm sai số gây nhiễu).
Một số chỉ
trích tiêu cực cụ thể cần phải được phê bình (đánh giá lại). Phổ
biến nhất trong số này là của Popp và cộng sự và “bản cập
nhật” gần đây của nó (dành cho Cơ sở dữ liệu Cochrane), và một bài báo do BBC
(Anh) tài trợ. Trong cùng một khuôn này là một “Thư gửi Andrew Hill”
đáng chú ý của Tiến sĩ Tess Lawrie. Khi ủng hộ IVM, bà ấy đã chất vấn về
sự đảo ngược (kết quả) của ông ấy đối với một phân tích tổng hợp tích
cực. Mỗi bài chỉ trích này đã bị xem xét nghiêm túc nhằm xác định sự thiên
vị, lỗi phương pháp và việc chọn lựa có định hướng các nghiên cứu. Người
đọc nên tham khảo các tài liệu sau đây để xem phê bình chi tiết:
(i) “ Việc sử dụng và lạm
dụng Đánh giá có hệ thống: trường hợp của ivermectin trong Covid-19”. Fordham và cộng sự
(10.31219/osf.io/pcqcj): (Báo cáo Cochrane của Popp và cộng sự). (link)
(ii) Thư gửi
Andrew Hill – Tác giả Tess Lawrie (https://ivmmeta.com)
(iii) Bài
báo của BBC – (https://ivmmeta.com)
KẾT
LUẬN: Molnupiravir là một thuốc đang chờ bằng chứng hỗ trợ. Cần
phải loại trừ độc tính
gây đột biến, vốn tiềm ẩn nguy cơ gây ung thư
và các khuyết tật xuyên
thế hệ. Nguy cơ tạo ra virus đột biến trong cộng đồng vẫn chưa được loại trừ. Kết
quả từ thử nghiệm Toàn cảnh (Panoramic) của Oxford sẽ là rất quan trọng đối với
tương lai của molnupiravir.
Paxlovid có giá trị, đặc biệt ở những người trên
65 tuổi, bất kể tình trạng vắc-xin. (Nhưng) Dữ liệu của Israel cho
thấy không có lợi ích
nào ở những đối tượng trẻ tuổi hơn cần được nghiên cứu thêm, trong khi sự tái phát bệnh và tính an toàn cần
được làm rõ. Việc tạo ra các virus đột biến vào cộng
đồng là một mối nguy cơ dài hạn đáng lo ngại.
Thật quá khó
để mong đợi sự đánh giá khách quan về HCQ - kết quả đáng tiếc của một kịch bản tuyên truyền quá mức, với quán
tính dường như không thể thay đổi. Sức nặng của việc phản đối sử dụng nó
trong điều trị COVID-19 và các hậu quả chính trị quan liêu đã bất chấp nguyên
tắc phổ quát trong mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Điều này không
chỉ ngăn cản bệnh nhân dùng một loại thuốc có giá trị, mà còn đe dọa các nguyên
tắc mà thực hành y tế đã phát triển.
IVM cũng là đối tượng của “kịch bản tuyên
truyền” theo kiểu chưa từng có. Hiệu quả trong điều trị COVID-19 được chứng
minh bởi hơn 30 thử nghiệm RCT với 7.000 bệnh nhân. Các lo ngại liên
quan đến chất lượng của một số nghiên cứu đã được giải quyết. Kinh
nghiệm ở các khu vực và quốc gia cung cấp IVM miễn phí và nhiều nghiên cứu
quan sát sử dụng đối sánh điểm xu hướng, đã bổ sung thêm cơ sở bằng
chứng. IVM có những ưu điểm so với các loại thuốc kháng vi-rút hiện có:
khoảng thời gian điều trị rộng hơn cho phép sử dụng hiệu quả trong điều trị dự
phòng lẫn điều trị muộn; việc nhân bản virus được rút ngắn; hồ sơ an
toàn vững chắc giúp nó không bị giới hạn độ tuổi; sự đảo ngược đáng kể tình
trạng thiếu oxy; bằng chứng về việc giảm đáng kể Hậu COVID và các mục tiêu
chống vi-rút đa điểm của nó, mang lại lợi thế so với các loại thuốc chống
vi-rút cụ thể hiện tại. Và nó rẻ và sẵn có!
Liên quan đến
nguy cơ trước mắt ở Úc, là nhiều nghiên cứu khu vực cho thấy lợi ích trên toàn
cộng đồng, mà không thể tạo ra được với bất kỳ chiến lược tiêm chủng
hoặc thuốc thay thế nào.
Đánh giá dựa
trên cơ sở khoa học này về các loại thuốc được sử dụng để điều trị nhiễm bệnh
COVID-19 có đính kèm các liên kết đến các nguồn dẫn chứng. Người Úc đang
phải vật lộn với gánh nặng lây nhiễm COVID-19 chưa từng có (NSW vào ngày 23
tháng 7 đã liệt kê 160.000 trường hợp đang điều trị, 2.200 người phải nhập viện
và 14 trường hợp tử vong), lại đang bị ngăn
cản việc tiếp cận các loại thuốc rẻ nhất, an toàn nhất và hiệu quả nhất.
Cách rẻ
nhất, an toàn nhất, hiệu quả nhất và dựa trên cơ sở khoa học để ngăn chặn sự bùng
phát COVID-19 chính là cung cấp các gói thuốc có IVM cho các hộ gia đình, kèm
theo bộ xét nghiệm nhanh và những chỉ dẫn rõ ràng. Một câu hỏi không
bao giờ có lời đáp, câu hỏi đi vào bản chất của y học cổ truyền phương Tây, đó
là khi đã có sẵn một số loại thuốc tái sử dụng giá rẻ được TGA công nhận với hồ
sơ đặc biệt an toàn, mỗi loại đều có một lượng dữ liệu đáng kể hỗ trợ hiệu quả
trong điều trị COVID-19 , "Có gì để mất (mà không cung cấp nó cho người
dân)?"
(Xin cảm
ơn rất nhiều bác sĩ và nhà khoa học trong nước và quốc tế đã đọc và góp ý bài
viết này, đưa ra nhiều gợi ý và nhận xét hữu ích. Đặc biệt cảm ơn Christine.)
Robert
Clancy.
(Robert
Clancy là Giáo sư danh dự về Bệnh học tại Trường Y Đại học Newcastle. Ông
là thành viên của Cơ sở dữ liệu chuyên gia về COVID-19 của Viện Hàn lâm Khoa
học Úc. Ông cũng đã viết về các khía cạnh của đại dịch Covid trong các số
tháng 7-8 và tháng 10.)
4) Kết luận về
sự gian dối kinh hoàng về các thuốc điều trị covid.
Qua
nhiều lần cập nhật trong bài viết này, người đọc có thể thấy rõ:
-
Đầu
tiên: Các loại thuốc rẻ tiền, an toàn, đã được sử dụng hàng chục năm trước đó,
và tái sử dụng cho điều trị covid, với một lượng lớn nghiên cứu và thử nghiệm
chứng minh (Ivermectin và Hydroxychloroquine), đã bị gạt bỏ. Có 2 lý
do chính: một là để đưa ra lời tuyên truyền rằng “covid chưa có thuốc chữa”, nhằm
tăng độ phủ vaccine; và thứ hai là các thuốc này đã hết hạn bằng sáng chế, không
đem lại lợi nhuận.
(tham khảo bài 44.
Thơm (Dứa): ngăn ngừa tác hại vaccine và phòng trị covid và bài 40.
Các giải pháp điều trị covid và nâng cao sức khỏe nói chung)
-
Tiếp đó,
song song với vaccine covid, các thuốc điều trị covid “chính thống” ĐẮT TIỀN, VÔ DỤNG nhưng NGUY HIỂM được lăng-xê bởi truyền thông và các hãng
dược, vốn giữ bằng sáng chế và kiếm lợi hàng tỉ đô-la, với nhiều dấu hiệu về mâu
thuẫn lợi ích, thậm chí là tham nhũng của các chính phủ Âu, Mỹ. (Molnupiravir,
Paxlovir, và Remdesivir…)
-
Các
bằng chứng về vấn đề này đã trở nên RÕ RÀNG, và được đưa ra trong bài báo của Gs. Robert Clancy.
-
Tuy
nhiên, đây cũng không phải lần đầu tiên, mà y học bị dẫn dắt bởi các tập đoàn dược
với số tiền khổng lồ. Tham khảo bài
33. GÓC TỐI của ngành dược và Tây y để biết thêm về sự thối
nát của Tây y ngày nay.
1) Molnupiravir
Sự nguy hiểm của Molnupiravir đã được cảnh
báo chi tiết ở bài số 16. CẢNH BÁO VỀ MOLNUPIRAVIR. Trong bài này chỉ nhắc sơ vài ý, người đọc có thể xem chi
tiết bài 16 để rõ hơn các vấn đề khuất tất bên trong.
Bài viết đã chỉ ra rằng:
-
Số liệu hiệu quả 50% của Molnupiravir chỉ là số
liệu tạm thời tính tới thời điểm đó
(chưa đầy 2 tháng), và quy mô thử nghiệm là rất nhỏ (1 thử nghiệm giai đoạn
3 với chỉ hơn 700 người tham gia).
-
Molnupiravir vốn là 1 hoạt chất gây
đột biến gien, và nghiên cứu thực tế trên động vật đã chứng minh rằng Molnupiravir có khả
năng gây đột biến DNA ở động vật có vú, có thể dẫn tới ung
thư hay sảy thai và nhiều rủi ro khác.
-
Chính phủ Mỹ đã đặt hàng Molnupiravir từ trước khi thuốc
được bắt đầu thử nghiệm giai đoạn 3. Và thuốc được lăng xê ồ ạt kể từ thời điểm
đó.
-
Nhà sản xuất thuốc là Merck đã ra giá bán cao
hơn khoảng 40 lần so với giá sản xuất.
Đến ngày
26/11/2021, tờ Financial Times đưa tin cho biết chính Merck đã thừa nhận
rằng thuốc không hiệu quả như họ từng nói, và số liệu cập nhật cho thấy hiệu
quả của thuốc giảm đáng kể, chỉ còn 30%!
Nhà sản xuất thuốc là Merck
cũng đăng kết quả này lên trang web của họ. Nguyên văn: “…molnupiravir reduced the risk of hospitalization or death
from 9.7% in the placebo group (68/699) to 6.8% (48/709) in the molnupiravir
group, for an absolute
risk reduction of 3.0% (95% confidence interval
[CI]: 0.1, 5.9; nominal p-value=0.0218) and a relative risk reduction of 30%”
2) Favipiravir
Favipiravir vốn là 1 loại thuốc
trị cúm, và cũng đã được lăng xê cho việc chữa covid.
Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy Favipiravir hoàn toàn hoặc gần như không có
hiệu quả điều trị covid:
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/32958718/
https://www.ijidonline.com/article/S1201-9712(20)32453-X/fulltext
Nghiên cứu mới nhất đưa ra vào tháng 11/2021 cũng xác nhận
lại sự vô dụng của Favipiravir: https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.11.08.21265884v1
3) Remdesivir
Trước đó, Remdesivir cũng đã được
nói đến trong phần phụ lục 3 của bài số 20. NGHỊ SĨ BANG OREGON CÁO BUỘC FDA, CDC
GIAN DỐI VÀ THAO TÚNG SỐ LIỆU COVID-19.
Trong khi gạt bỏ các liệu pháp hiệu quả mà rẻ tiền (Vitamin D, Kẽm,
Ivermectin, HydroxyChloroquine…) thì Mỹ lại đẩy rất mạnh việc sử dụng
Remdesivir.
-
Theo database tổng
hợp các nghiên cứu về Remdesivir https://c19rmd.com/,
thì Remdesivir
có hiệu quả trung bình rất thấp, chỉ khoảng 19%. Nhưng điều đặc biệt
là lại có một số nghiên cứu cho thấy Remdesivir không những không hiệu quả, mà
còn gây tăng số lượng nhập viện/ tử vong. Điều này cho thấy tác dụng của
Remdesivir rất thấp mà TÁC DỤNG PHỤ LẠI QUÁ CAO!
-
Đồng thời,
Remdesivir lại có giá bán quá cao, khoảng 2.000-3.000 đô/ liệu
trình!
-
Vào tháng
10/2020, trước khi có đánh giá rõ ràng về hiệu quả của Remdesivir, thì Ủy ban
Châu Âu đã đặt mua 500.000 liệu trình Remdesivir với tổng trị giá lên tới 1,2 tỷ
đô la Mỹ: https://www.bmj.com/content/371/bmj.m4749
-
Ở Mỹ, FDA cũng
duyệt việc dùng Remdesivir từ tháng 10/2020. Và tạp chí Science đã phải có 1
bài báo đặt nghi vấn rất lớn về vấn đề này: https://www.science.org/content/article/very-very-bad-look-remdesivir-first-fda-approved-covid-19-drug
o
Bài báo cho biết
rằng FDA đã không hề họp tổ chuyên gia để thảo luận về việc thông qua
Remdesivir (như đã làm với vaccine, mà người viết đã có nhắc đến trong bài 19.
NGUY CƠ DO VACCINE COVID-19 (2) VÀ THẢM HỌA TOÀN CẦU)
o
Bài báo cũng chỉ
ra rằng Ủy ban Châu Âu đã đặt mua Remdesivir từ trước khi có kết quả thử nghiệm!
o
Và sau khi các kết
quả có số liệu, thì cho thấy: hiệu quả là cực thấp.
-
Và đến tháng
11/2020, thì WHO công khai tuyên bố là
KHÔNG NÊN DÙNG (recommend against) Remdesivir trị Covid, sau khi xem hết số liệu từ 4 nghiên cứu của Gilead
(hãng sản xuất Remdesivir). https://www.who.int/news-room/feature-stories/detail/who-recommends-against-the-use-of-remdesivir-in-covid-19-patients
-
Như vậy, tại sao
các nghiên cứu không chứng minh hiệu quả, và thậm chí là nhiều tác dụng phụ
nguy hiểm, mà Mỹ và các nước châu Âu vẫn ‘nhanh nhảu’ đặt mua Remdesivir với những
hợp đồng khổng lồ?
o
Câu trả lời có thể
nằm ở 1 báo cáo độc lập này, cho thấy NIH (cơ quan y tế chính phủ Mỹ) đã tài trợ cho Gilead tới 6,5 tỷ để nghiên
cứu Remdesivir trong suốt 20 năm trời (từ năm 2000-2019): https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2020.07.01.20144576v1
o
Sự lũng đoạn của
các big pharma đã ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ và một số nước châu Âu.
4. Kết luận:
-
Cả 3 loại thuốc là Molnupiravir, Favipiravir và
Remdesivir dù được lăng xê rầm rộ, nhưng gần như không có hiệu quả trong việc
điều trị covid. (nhưng lại có nhiều tác dụng phụ nguy hại, và sẽ được cập nhật
trong các mục sau)
-
Người ta nên nhìn kỹ hàng chục, hàng trăm nghiên cứu đã
công bố về IVM và HCQ cũng như những nước đã sử dụng những thuốc này rất hiệu
quả, thay vì nghe theo truyền thông lăng xê những thứ thuốc đắt tiền mà vô dụng.
(xem phụ lục)